5.- NANG THƠ CẨM TÚ

02 Tháng Bảy 200912:00 SA(Xem: 43280)
5.- NANG THƠ CẨM TÚ

XUẤT XỨ

          Trên bước truân chuyên truyền Đạo, tấm thân Đức Huỳnh Giáo Chủ phải xa quê hương, lưu lạc xứ người. Vì nghĩ đến đấng sanh thành và tình sư đệ chia tay cách biệt, chẳng biết ngày nào mới trùng hưng, nên Ngài cất tiếng buồn than và tỏ cho mọi người được biết: Âu cũng là sự sắp đặt của hóa công, chớ lòng Ngài không muốn vậy. Nhưng “Tuy thân Thầy lướt cuộc gió sương, Mà thỏa chí tang bồng hồ thỉ” Và: “Càng đi càng biết nhiều nơi, Càng đem chơn lý tuyệt vời phổ thông”.

          Hôm ấy nhằm ngày 29/5 năm Canh Thìn, nhà đương cuộc Pháp dời Ngài đến làng Nhơn Nghĩa (Xà No). Đức Giáo Chủ sáng tác bài: “Nang Thơ Cẩm Tú” để nói lên ý chí tự tin và tài thao lược của đấng giác ngộ.

 

VĂN THỂ

          Đức Giáo Chủ PGHH viết bài nầy bằng thể Thất ngôn trường thiên, lối thuyết giáo, dài 214 câu. Hai câu chót viết theo thể Lục bát bằng lối ngâm. Khởi đầu bằng câu: “Trời thanh lặng gió đưa hiu hắt”. Và chấm dứt bởi câu “Muôn năm cộng lạc chúa hiền tôi trung”.

 

NỘI DUNG

          Đức Huỳnh Giáo Chủ nói lên nỗi lòng héo hắt xa quê hương, lìa cha mẹ, ly cách Thầy trò. Nhưng đây là cơ thử thách để tỏ rõ tấm lòng của bậc trượng phu có nao núng cùng chăng ? Rồi Ngài bày tỏ chí khí của bậc anh hùng mang một hoài bão to tác “Lấp biển vá trời”, dựng lên thời thế oanh oanh liệt liệt. Sau cùng Ngài cầu chúc bá tánh hưởng cuộc đời vui tươi hạnh phúc đồng hát khúc khải ca, muôn nhà thạnh thái.

 

CHỦ ĐÍCH

          Đức Huỳnh Giáo Chủ mong mỏi tín đồ và toàn dân nước Việt nuôi chí quật cường lên để “Phá tan óc tinh thần nhu nhược” “Ẩn nhẫn hoài chờ đợi vận hanh thông”. Sau đó, Ngài kêu gọi tinh thần đoàn kết không phân biệt Bắc Nam rồi Ngài đơn cử những bậc anh hùng để kích thích lòng nghĩa khí của những trang tuấn kiệt, noi theo gương hạnh của người xưa trong sách sử.

 

CHÁNH VĂN

·  1.-Trời thanh lặng gió đưa hiu-hắt,

·  Ngồi thơ phòng thân bắt lạnh-lùng.

·  Gẫm xác trần còn cách cội thung,

·  2.-Đâu có được giũ mùng quạt gió.

 

CHÚ THÍCH

          NANG THƠ: Nang là cái đãi, cái túi bao (bao thư). Thơ: Bài viết thể văn vần (vận văn) bao đựng thơ văn. Nghĩa bóng: Bài văn tiên đoán vận mệnh tương lai được để lại cho hậu thế.

          CẨM TÚ: Cẩm: gấm; Tú: thêu. Sự đẹp đẽ như gấm thêu. Nghĩa bóng: Văn chương hay đất nước đẹp đẽ như gấm thêu.

          HIU HẮT: Nhè nhẹ. Ôn Như Hầu có câu: “Trải vách quế gió vàng hiu hắt”. Đức Thầy cũng diễn tả: “Gió hiu hắt bên rừng quạnh quẽ”.

          LẠNH LÙNG: Lạnh lẽo. Nghĩa bóng: Không có vẻ ân cần sốt sắng. Đức Thầy cũng bảo: “Lạnh lùng mây bạc bị luồng giông”.

          CỘI THUNG: Cội: gốc rễ. Thung: loài cây sống lâu, biểu tượng người cha (thung cỗi huyên già) cha già.

          GIŨ MÙNG QUẠT GIÓ: Rung mạnh cho sạch bụi bặm, quạt mạnh để đuổi muỗi mòng. Nghĩa bóng chăm lo săn sóc cha mẹ già yếu.

LƯỢC GIẢI

(Từ câu 1 tới câu 4)

          Vào một ngày giữa mùa Hè trời trong thanh lặng, cảnh vật nên thơ, gió đưa hiu hắt khiến lòng lữ thứ hoài cảm bao mối tâm tư; Đức Thầy ngồi một mình đối diện với bóng đèn khuya chợt nhớ đến đến hoàn cảnh ly hương mà lòng Ngài bắt lạnh lùng chua xót. Gẫm lại xác nầy do cha mẹ sanh ra trăm cay nghìn đắng mới được nên người, giờ đây phiêu lưu gió bụi cách biệt song thân, cái ân sanh thành ấy biết chừng nào đền đáp được. Âu cũng là số mạng trớ trêu. Nghĩ rất buồn thay cho số phận!

 

CHÁNH VĂN

·  5.-Cơn mừng vui nào ngờ lũ ó,

·  Vội bay ngang rồi xớt đi luôn.

·  Chữ ngậm-ngùi lụy ngọc ứa tuôn,

·  8.-Nào phải giống chim muông điểu-thú.

·  Lìa quê-hương quên câu nghĩa cũ,

·  Bởi xác phàm hấp thụ đã lâu.

·  Cuộc lung-tung rối-rắm trời Âu,

·  12.-Nên còn ngại bước đường trở gót.

 

CHÚ THÍCH

          LŨ Ó: Lũ: bầy. Ó: Con ó. Bầy con ó. Nghĩa bóng chỉ cho bọn Thực dân.

          NGẬM NGÙI: Thương nhớ trong lòng không nhớ ra. Bùi ngùi xúc động.

          LỤY NGỌC: Lụy: lệ nước mắt. Ngọc: Quý báu. Ý chỉ bậc vương giả. Nước mắt của kẻ giàu sang hay người con gái đẹp. Đức Thầy có câu: “Tiếng than lụy ngọc nhỏ tràn”.

          CHIM MUÔNG ĐIỂU THÚ: Các giống chim và thú vật. Trong Cung Oán có câu: “Kìa điểu thú là loài vạn vật”.

          QUÊ HƯƠNG: Nơi mình sinh ra. Đức Thầy có câu “Quê hương rày đã dặm tràng sơn xuyên”.

          HẤP THỤ: Nhận chịu lấy, thu nhặt vào.

          LUNH TUNG: Loạn xạ, không có thứ tự, khắp nơi. Đức Thầy có câu: “Âu Á lung tung nhuộm máu đào”.

          TRỜI ÂU: Cũng gọi là trời Tây (do chữ Âu Tây). Chỉ cho Châu Âu, châu này gây nên Đệ nhị thế chiến (1939).

LƯỢC GIẢI

(Từ câu 5 đến câu 12)

          Cuộc trùng phùng giữa thân quyến và Tớ Thầy chưa được hả hê, bỗng nhiên hung tin bất ngờ đưa đến, rồi người Pháp dùng áp lực bắt buộc lưu đày Ngài nhiều nơi do họ chỉ định, làm cho thân xác Đức Huỳnh Giáo Chủ phải chịu vày vò khổ khó. Ngài phải chịu cảnh lìa quê hương một cách đột ngột không một lời từ giã. Ngài buồn tủi xác thể con người chớ nào phải loài cầm thú chi mà bọn thực dân đối xử quá nhẫn tâm, quá điểu giả. Ôi ! Cuộc nhân tình thế thái nào ai khôn lường trước được.

          Quê hương là nơi chôn nhau cắt rốn, nghĩa sanh thành dưỡng dục cù lao, tình Thầy tớ ruột rối tơ vò, ân nghĩa mặn nồng như chim liền cánh, cội liền cành thế mà nay phải chịu cảnh chia ly cách biệt. Ôi ! Có cái khổ nào bằng cảnh:

                “Người mình thương bỗng lại chia lìa,

                   Khi khóc than nước mắt đầm đìa.

                   Lúc trông nhớ ruột tằm chua xót”.

          Tạo hóa nỡ bày chi lắm điều chua cay quá nhỉ !

          Lại nữa cuộc chiến cứ bùng nổ lung tung khắp bầu trời Âu Á làm cho nhân loại điêu linh trong cơn binh lửa, làm trở ngại bước đường về. Thế nên Đức Tôn Sư PGHH phải đành chấp nhận thực tế phũ phàng quên câu nghĩa cũ.

CHÁNH VĂN

·  13.-Tiếng riêng than tai nghe thảnh-thót,

·  Trăm ngàn nhà bổn-đạo ước mơ.

·  Con lạc cha con hỡi u-ơ,

·  16.-Thầy xa tớ ngẩn-ngơ thương mến.

·  Ngóng trông chờ vận-thời đưa đến,

·  Đặng chung cùng một tiệc quỳnh-tương.

·  Cây ngô-đồng hứng vẻ đượm sương,

·  20.-Cho chim phụng mặc tình sè múa.

·  Cảnh sum-vầy mây lành bay tủa,

·  Cả trời Nam lưới bủa thiên-la.

·  Chữ Thánh Hiền mới được nôm-na,

·  24.-Ta thỏa chí hô-hào trung-nghĩa.

·  Giống hiền xưa bây giờ mới tỉa,

·  Dốc chờ ngày bông trổ thơm tho.

·  Tuy ngày nay chưa được ấm no,

·  28.-Sau được dựa nơi non nhược thủy.

 

CHÚ THÍCH

          THẢNH THÓT: Nghe rõ từng tiếng một. Trong Cung Oán Ngâm Khúc có câu: “Giọt ba tiêu thảnh thót cầm canh”. Ý nói: Lời thở than đau xót của chư bổn đạo khắp nơi Đức Tôn Sư đều nghe rõ từng tiếng, từng cá nhân.

          ƯỚC MƠ: Mong mỏi hy vọng, Đức Thầy có câu: “Ước mơ thế giới lân Hoà Hảo”.

          U Ơ: Nói không rõ tiếng. Ông Nguyễn Thanh Tân có câu: “U ơ bầy bướm hỡi chờ xuân”.

          NGẨN NGƠ: Kinh ngạc, lấy làm lạ. Nghĩa bóng: Không thiết sự đời nữa. Đức Tôn Sư từng bày tỏ:

“Ngày đầu nhiều kẻ còn mơ,

Trị chơi ít bịnh ngẩn ngơ xóm riềng”.

          VẬN THỜI: Khí số xoay vần theo diễn tiến của thời gian. Đức Thầy xác định:

                   “Vận thời luân chuyển đưa Ta tới,

                   Tới chốn nhà thương dưỡng bịnh điên”.

          Hoặc giả: “Xét xem hai chữ vận thời còn xa”.

          TIỆC QUỲNH TƯƠNG: Quỳnh: Tên một loại ngọc đẹp. Nghĩa bong: Tốt đẹp quý giá. TƯƠNG: Nước dùng để uống. Rượu ngon. Tiệc Quỳnh Tương: Tiệc của các bậc Tiên gia dọn đãi Thánh chúa và chư Tiên hội ăn mừng các ngày đại lễ. Đức Thầy có câu:

                   “Chén Quỳnh Tương gát điều gai ngạnh,

                   Vui tinh thần bày biện cuộc cờ.

                   Khi thừa nhàn trổi giọng ngâm thơ,

                   Bày thi phú than qua thời thế”.

          CÂY NGÔ ĐỒNG: Loại cây to, gỗ nhẹ, thường dùng làm đàn. Thường thường cứ đến mùa Thu thì lại trụi cành. Tương truyền: Nơi nào có cây ngô đồng tức có chim phụng đến đậu. Nghĩa bóng: Cây quý. Cổ thi có câu: “Ngô đồng nhất diệp lạc, thiên hạ cộng tri thu”.(Ngô đồng một lá rụng rơi, Ai ai cũng biết cảnh trời sang thu).

          ĐƯỢM SƯƠNG: Đượm: Thắm thía; Sương: Hơi nước ở trong không khí, ban đêm hoặc buổi sớm mùa lạnh thường đọng lại trên cây cỏ. Đượm Sương: Đượm hơi sương lạnh. Nghiã bóng: Thỏa lòng mong muốn.

          CHIM PHỤNG: Chim Phượng Hoàng. Con trống là Phụng, con mái là Hoàng, mình bạc, mỏ gà, mắt người, cổ rắn, hàm én, lưng rùa, đuôi cá, lông ngũ sắc; chẳng phải cây ngô đồng thời không đậu, chẳng phải cây trúc thời không ăn. Phụng Hoàng là giống chim đem lại điềm lành (điều lành). Khi nào Phụng Hoàng ra đời thì có Thánh nhân. Một trong bốn con vật linh thiêng: (Long, lân, qui, phụng). Đức Thầy có câu:

“Trên non Tiên văng vẳng tiếng Phụng Hoàng,

Phật Tiên Thánh an bang cùng định quốc”.

          SÈ MÚA: Sè: Giương cánh ra. Múa: Thể hiện những động tác mềm mại, liên tiếp biểu hiện những tư tưởng tình cảm. Sè múa: Cử động đôi cánh và hai chân ăn nhịp theo điệu khúc tình tiết xúc động. Nghĩa bóng: Biểu hiện tình tiết thỏa mãn của lòng mong muốn.

          SUM VẦY: Đoàn tụ hội hiệp, Đức Thầy có câu: “Trên cùng dưới sum vầy một buổi”.

          MÂY LÀNH: Mây: Đám hơi nước trong khí quyển ngưng lại, lơ lửng trên bầu trời. Lành: Điềm lành. Nghĩa bóng: Có Trời Phật che chở.

          TRỜI NAM: Chỉ cho nước Việt Nam. Đức Thầy có câu: “Trời Nam sốt ruột chờ con đỏ”.

          THIÊN LA: Thiên: trời; La: Bao la. Do câu: “Thiên la địa võng”, lưới trời lồng lộng. Nghĩa bóng: Luật trời hay luật nhân quả. Đức Thầy có câu: “Ly kỳ thiên định dĩ thiên la”.

          THÁNH HIỀN: Bậc Thánh và bậc Hiền, theo Nho học cho rằng trong nhân loại có ba hạng người: Sinh nhi tri (không học mà biết) đó là bậc Thánh nhân. Học nhi tri (có học thì biết) đó là bậc Hiền nhân. Học nhi bất tri (học mà vẫn không biết) đó là người ngu muội. Đức Thầy có câu:

“Thánh hiền chẳng biết sao vừa lòng dân”.

          NÔM NA: Do thành ngữ: “Nôm na là cha mách qué”. Theo lối nôm thì được cấu tạo như sau. Thí dụ: Chữ “Biết” (còn gọi là Biệt). Khi đọc là Biết, khi đọc là Biệt. Tùy theo chỗ đứng của nó. Trong Kiều có câu: “Thấy chàng đau nỗi biệt ly”. Và câu “Thoát trông nàng đã biết tình”. Nghĩa bóng: Dùng chữ nghĩa để lại đời. Đức Thầy có câu: “Theo học cổ nôm na ít tiếng, Làm nhiều điều xao xuyến nhơn tâm”.

          NÔM: Tiếng thông dụng của người Việt Nam xưa. Chữ Nôm đối với chữ Nho. Chữ Nôm hoặc dùng nguyên chữ Nho, hoặc lấy hai ba chữ Nho ghép lại để đọc theo tiếng nói của người Việt. Ví dụ: Túc cầu nói nôm na là đá bóng. Nghĩa rộng: Dùng tiếng nước nhà. Đức Thầy có câu: “Ngày nay ta cũng nôm na”, theo mỹ ý toàn câu: Chữ nghĩa Thánh Hiền xưa, hôm nay Đức Thầy tạm gượng ép thành chữ nghĩa để viết ra Sấm Giảng cho người Việt chúng ta xem.

          HÔ HÀO: Hô: kêu gọi; Hào: la lớn. kêu gọi kích động mọi người cùng làm một việc trọng đại.

          TRUNG NGHĨA: Trung: hết lòng cới vua, với nước; Nghĩa: làm theo chánh nghĩa, hoặc theo lẽ phải. Trung Nghĩa: Hết lòng phò tá với dân với nước theo con đường chánh nghĩa. Dù có hy sinh tánh mạng chẳng nao lòng. Đức Thầy có câu:

          “Thương những người trung nghĩa vẹn toàn”.

          GIỐNG HIỀN XƯA: Giống: hột giống. Hiền xưa: hiền nhiều kiếp trước. Giống hiền xưa: Giống lành sẵn có trong tâm của mỗi chúng sanh. Do câu sách Thánh: “Nhơn chi sơ, tánh bổn thiện”.(Người mới sanh, tánh vốn lành). Nghĩa rộng: Hột giống Phật tâm mình xưa kia đã bị vùi lấp, ngày nay mới bắt đầu tỉa lại.

          THƠM THO: Mùi hương dễ chịu bay loang tỏa khắp nơi. Nghĩa bóng: Việc hợp với đạo lý khiến mọi người ưa thích làm theo. Đức Thầy sách tấn: “Thơm tho gia trụ danh đề Tổ Tông”.

          ẤM NO: Đầy đủ về vật chất. Xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Truyện Kiều có câu: “Tay không chưa dễ tìm vành ấm no”.

          NHƯỢC THỦY: Tên một con sông ở về cực Tây nước Tàu (Tr.Hoa). Theo sách “Sơn Hải kinh” có nói về nước sông ấy có tính rất yếu, không đỡ nổi hột cải. Nghĩa rộng: Ý chỉ cảnh Tiên nơi thoát tục.

 

LƯỢC GIẢI

(Từ câu 13 đến 28)

          Sau cái hung tin bất  ngờ, đồng đạo trẻ già phải chịu cảnh “con xa cha, Thầy lạc tớ”, trăm người như một, não nuột sầu bi, khó đứng khôn ngồi, lệ ứa thâm mi, dường như cắt đau từng khúc ruột. Ôi ! Khổ ơi là khổ, không có cái khổ nào bằng cái khổ “kẻ ở người đi”. Nhưng rồi lần lượt thời gian cũng trôi qua, ai cũng đều trông ngóng vận thời đưa đến trong một ngày gần đây, tớ thầy đồng sum hợp “Phải ngóng chờ cho phụng gặp kê, Ấy thời đại thánh tiên trổ mặt”.

          Để cùng xiết chặt tay nhau dự hội Quỳnh Tương nơi miền Bảy Núi “Trên non Tiên văng vẳng tiếng phụng hoàng, Phật Tiên Thánh an bang cùng định quốc”.

          Chừng đó nhà nhà đều không đóng cửa. Ngoài đường của rơi không người lượm. Chim phụng gáy đầy ngoài đồng nội. Cây ngô đồng mọc đầy đường, cành lá tốt tươi, hoa trổ bốn muà thơm ngát. Đó là cảnh “Bốn biển một nhà Cha, Phật, Thánh”. Khắp cả trời Nam đều có mây lành bay tủa, các bậc Thần Tiên đều lâm phàm, quăng phép mầu: Trên bố trí thiên la, dưới quăng địa võng, bao bọc khắp thành trì miền Bảy Núi. Thật là cảnh an nhàn vui đẹp chưa từng thấy.

          Chừng đó nền Đạo Thánh mới được rạng rỡ và gương trung nghĩa được danh bia khắp chốn. Giá trị của người tu được nâng cao tột bực. Bao nhiêu ước vọng hoài mong trong nhiều tiền kiếp Đức Huỳnh Giáo Chủ nung nấu từ ngàn xưa rồi đây sẽ trở thành hiện thực. Hoa từ bi sẽ nở rộ khắp trời Nam, mọi nhà, mọi giới, mọi hồn linh đều được hoan ca vui khúc khải hoàn. Tuy rằng hiện giờ thân xác Thầy phiêu lưu trôi giạt, như cánh buồm không định hướng, toàn dân chưa được ấm no. Nhưng ngày sau chắc chắn sẽ được tròn nguyện ước trên cảnh non bồng nước nhược.

CHÁNH VĂN

·  29.-Đây trưng bày khuyên gìn cang-kỷ,

·  Đờn những câu tỉ-mỉ rung hồn.

·  Cho người lành dạ ái bắt nôn,

·  32.-Cúi đầu trước quy-y Phật-Pháp.

·  Quản chi thân bị mưa, nắng táp,

·  Nơi sang giàu ấm-áp mặc ai.

·  Vẽ cho dân lập chí râu mày,

·  36.-Phá tan óc tinh-thần nhu-nhược.

·  Thân nặng nề như chim ô-thước,

·  Quyết làm xong cầu đá sông Ngân.

·  Nên chẳng màng báu ngọc châu trân,

·  40.-Miễn con thảo nhuần ân Thánh-Đế.

 

CHÚ THÍCH

          TRƯNG BÀY: Trưng: Chứng cớ. Bày: Phô trương sắp đặt. Nghĩa rộng: Có bằng chứng rõ rệt. Đức Thầy có câu: “Trưng bày tích cũ đành rành”.

          CANG KỶ: Còn gọi là cương kỷ. Trật tự và quy luật của một quốc gia. Chữ Cang có nghĩa là giềng mối: Theo quan niệm xưa xã hội Á Đông lấy tam cang (Quân thần cang, phụ tử cang, phu thê cang) và Ngũ thường (Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín) làm trọng. Đức Thầy có câu: “Loạn luân cang kỷ bất từ bất lương”.

          TỈ MỈ: Phân ra nhiều phần nhỏ, rất chi li.

          RUNG HỒN: Làm xao động tâm hồn. Tiếng đàn có cảm xúc rung động trái tim của đối tượng.

          DẠ ÁI: Dạ: lòng. Ái: yêu. Dạ ái: Lòng yêu thương sẵn có nơi tâm hồn nhân đạo của con người.

          BẮT NÔN: Bắt nôn nóng làm nhanh lên. Ý Đức Thầy khuyên: Làm người nên phải nôn nóng quy y phật pháp.

          MƯA NẮNG TÁP: Nói cho đủ “nắng táp mưa sa”. Ý chỉ cảnh gian truân vất vả, gây bao nỗi cực nhọc. Ca dao có câu:

“Mưa xuân lác đác vườn đào,

Công anh đắp đất ngăn rào trồng hoa.

Ai làm gió táp mưa sa,

Cho cây anh đổ cho hoa anh tàn”.

          ẤM ÁP: Ấm: Dễ chịu. Nghĩa bóng: Sự thỏa mãn về vật chất và tinh thần.

          LẬP CHÍ: Nuôi dưỡng ý chí để đạt mục đích.

          RÂU MÀY: Nghĩa chữ Tu mi. Chỉ người đàn ông. Đưc Thầy có câu: “Sống sanh ra phận râu mày”.

          TINH THẦN: Tinh: Cái gì thuộc về linh hồn (trái với vật chất). Thần: Phần thiêng liêng sáng suốt của con người. Nói chung về phần tâm hồn. Đức Thầy có câu: “Lấy tinh thần hiệp vén ngút mây”.

          NHU NHƯỢC: Nhu: mềm mỏng. Nhược: Yếu mềm. Lấy nhu để thắng cương. Đức Thầy có câu: “Gìn tâm nhu nhược chờ vận đến”.

          CHIM Ô THƯỚC: Ô thước còn gọi là cầu Ngân do chim quạ kết thành cầu bắc qua sông Ngân hà. Do điển tích Chức Nữ và Ngưu Lang: Kẻ dệt vải, người chăn trâu. Cả hai đều siêng sắn, Thượng Đế thương tình cho kết làm chồng vợ. Nhưng khi có đôi bạn sanh ra lười biếng, nên bị đày, lấy sông Ngân làm ranh giới. Hằng năm chỉ đến đêm trừ tịch (Mùng 7 tháng 7) khi chim quạ nối đuôi nhau thành cầu, hai người mới được gặp nhau. Đức Thầy có câu:

“Chim ô đà dựa cầu ngân,

Người xưa trỏ gót cho gần người nay”.

          Ở đây Đức Thầy ví mình như chim Ô Thước, chúng sanh nhờ lập công bồi đức ngày sau được gặp lại Ngài.

          CẦU ĐÁ SÔNG NGÂN: Cầu đá: Bắc cầu bằng đá. Tương truyền: Chim quạ đội đá bắc cầu qua sông Ngân. Sông Ngân: Nghĩa của chữ Ngân hà. Tức là con sông Bạc, danh từ dùng gọi con đường trắng ở về phía đông trên trời người ta còn đặt tên là Ngân hà, hay Thiên hà tức là con sông trên trời. Thành ngữ Việt Nam có câu: “Trăm năm thề chẳng lòng phàm, sông Ngân đưa bạn cầu Lam rước người”, và trong thơ có câu:

“Đêm đêm trong dãy ngân hà,

Chuỗi sao tinh đẩu đã ba năm tròn.

Đêm mòn mà dạ chẳng mòn,

Tào khê nước chảy vẫn còn trơ trơ”.

          BÁU NGỌC CHÂU TRÂN: Báu ngọc: Đồ làm bằng ngọc ngà châu báu. Châu: Hạt trai. Trân: Quý. Hạt trai quý báu. Báu ngọc châu trân: Đồ quý giá bằng ngọc ngà được người đời trân trọng.

          CON THẢO: Người con hiếu thảo.

          NHUẦN ÂN: Gội nhuần ân đức.

          THÁNH ĐẾ: Ông vua đắc quả Thánh. Đức Thầy có câu: “Rày gặp mưa nhuần ân Thánh Đế”.

 

LƯỢC GIẢI

(Từ câu 29 đến câu 40)

          Đức Huỳnh Giáo Chủ ví lời Sấm Giảng như một bản đàn thâm diệu. Ngài rung động đê mê để đánh thức bao tâm hồn có căn lành sớm quay về nẻo giác. Giữ gìn thuần phong mỹ tục kỷ cương của tôn giáo, lo tu hành tiến thẳng về cảnh Tiên Phật.

          Ngài chẳng ngại chi thân bị sóng dập gió vùi, chẳng màng đến cảnh giàu sang phú quý của thế nhân, miễn làm sao chúng sanh  biết tu thân lập mạng tỏ ra chí khí trượng phu nam tử, dũng mãnh tiến xa trên đàng giải thoát, đánh tan đầu óc nhu nhược.

          Mang lấy thân phàm rất là nặng nhọc, hơn nữa bị cảnh lưu đày, nhưng ý chí vùng lên không bao giờ chùn bước, Ngài quyết làm xong cầu đá lấp ngang dãy Ngân hà như loài chim Ô thước cho Ngưu Lang Chức Nữ gặp nhau. Lòng Thầy như thế đó, biết trò có đủ khả năng, tròn công đức, đủ điều kiện gặp gỡ trùng phùng như chàng Ngưu, ả Chức hay chăng ? Trên đường truyền giáo miễn sao tròn chí nguyện, thành công tốt đẹp, hoàn thành nhiệm vụ nhà nhà no ấm được gội nhuần ân đức của Thánh Vương, tấm thân của Đức Thầy không màng chi báu ngọc châu trân.

 

CHÁNH VĂN

·  41.-Đứng anh-hùng dựng nên thời-thế,

·  Sá chi loài trùn dế nhỏ-nhen.

·  Vội đem lòng cượng-lý ghét ghen,

·  44.-Thêm cùng bớt tiếng kèn lời huyễn.

·  Chốn âm-ty ngưu đầu, mã diện,

·  Đang trông ngày tới số bắt hồn.

·  Cõi âm thần bịnh sái dịch ôn,

·  48.-Chờ mãn phước ra tay bẻ họng.

 

CHÚ THÍCH

          ANH HÙNG: Anh là vua các loài hoa. Hùng là vua các loài thú. Nghĩa bóng: Chỉ cho những người tài giỏi an bang tế thế. Theo sách Vương Thông cho biết: “Tự trị giả anh, tự thắng giả hùng”.(tự biết mình là anh, tự thắng mình là hùng). Ông Nguyễn Công Trứ có câu: “Anh hùng khi gấp cũng khoanh tay”.

          TRÙNG DẾ NHỎ NHEN: Con trùng con dế sống ở dưới đất rất là nhỏ nhen.

          CƯỢNG LÝ: Chống lại lẽ phải.

          GHÉT GHEN: Vừa ghét vừa ghen kẻ hơn mình.

          TIẾNG KÈN LỜI QUYỂN: Do thành ngữ “Giọng kèn giọng quyển”, lời dệt thêu thêm bớt không trung thực. Đức Thầy có câu: “Tiếng quyển tiếng kèn mặc ý bá gia”.

          ÂM TY: Cõi âm phủ. Tục truyền vua Tần Quảng Vương ngự trị tại đây, xét việc lành dữ của chúng sanh để tra tấn và hành phạt.

          NGƯU ĐẦU MÃ DIỆN: Đầu trâu mặt ngựa, chỉ cho quỷ sứ dưới cõi âm ty.

          CÕI ÂM THẦN: Âm: cõi người chết. Thần: Buổi ban mai, cõi người sống.

          BỊNH SÁI ÔN DỊCH: Bịnh dịch tả, còn gọi là bịnh thời khí. Bịnh nầy ngày xưa thường hay ói, tả tử vong rất cao. Người ta bảo nhau là bịnh ôn dịch do trời đất ban cho. Ông Sư Vãi có câu:

“Chết mà chẳng thấy trối trăn,

Là kêu ôn dịch hay mang khốn nghèo”.

          Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng bảo:

“Bịnh ôn dịch cũng đừng mời thỉnh”.

 

LƯỢC GIẢI

(Từ câu 41 tới câu 48)

          Là đấng anh hùng trong trời đất, có bản lãnh cao cường tạo dựng thời thế, nghĩa là có khả năng thay thế cuộc diện: Từ thua bại trở thành thắng lợi, nên những ghét ghen cượng lý, thêm bớt, tiếng kèn lời quyển chỉ là lẽ tầm thường, nhỏ nhen ích kỷ, không đáng bận tâm, chí đại của Đức Huỳnh Giáo Chủ đâu cũng là như thế.

          Cái đáng sợ là lưỡi hái của tử thần, những dịch bệnh âm binh, những cảnh trừng phạt của ngưu đầu mã diện nơi chốn âm ty. Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyên chúng sanh nên trực nhận xác thân vô thường, việc sanh, lão, bịnh, tử là trọng.

 

CHÁNH VĂN

·  49.-Cửa Tiên-bang hãy còn khóa cổng,

·  Nhà cha xưa cửa đóng then gài.

·  Con nào hiền thì vẹn thảo ngay,

·  52.-Đứa ngỗ-nghịch một mai đứt cổ.

·  Nhìn gương kiến sao không biết hổ,

·  Lũ gian thần nào biết Tổ-Tông.

·  Làm âu-sầu một góc trời Đông,

·  56.-Bị miệng sói thổi lông tìm vít.

·  Văn cang-thường đem ra bày trích,

·  58.-Vạch chỉ lời cổ tích người xưa.

 

CHÚ THÍCH

          TIÊN BANG: Nước Tiên hay cõi Tiên. Đức Thầy khuyến dạy:

“Theo Ta đến chốn Tiên bang,

Đặng coi các nước hội hàng Năm Non”.

          Nghĩa bóng ám chỉ cho nước Việt Nam sau nầy quí báu như cảnh Tiên.

          KHÓA CỔNG: Đóng cổng lại. Nghĩa bóng chưa đến thời kỳ.

          NHÀ CHA XƯA: Nhà cửa của Đấng Cha lành trước kia.

          CỬA ĐÓNG THEN GÀI: Nhà chưa mở cửa then còn gài chặt. Nghĩa bóng chỉ cho thời kỳ chưa có vua chúa xuất hiện.

          THẢO NGAY: Thảo: bảo dưỡng. Ngay: Ngay chánh. Hết lòng bảo dưỡng cha mẹ và trung thành với dân với nước.

          NGỖ NGHỊCH: Ngang tàng nghịch ngợm, xem mọi người không ra gì.

          ĐỨT CỔ: Bị chặt cổ. Nghĩa rộng: Bị chết một cách thảm khốc.

          GƯƠNG KIẾN: Gương lũ kiến. Loài vật biết kết đoàn và tận tình giúp đỡ nhau đến tận cùng. Lúc nào cũng tha mồi về đầy tổ để có no đủ cho cả đàn.

          LŨ GIAN THẦN: Nói cho đủ “Gian thần nịnh tặc”. Bầy tôi gian nịnh, ham sống sợ chết, a dua theo quyền thế, bợ đỡ để mua quan bán chức.

          ÂU SẦU: Lo lắng buồn phiền. Đức Thầy có câu: “Lòng ta thương chúng luống ưu sầu”.

          TRỜI ĐÔNG: Một vòm đất ở phía đông, gồm có nhiều quốc gia: Việt Nam, Cam Bốt, Ai Lao, Thái Lan…

          THỔI LÔNG TÌM VÍT: Vạch lưng chim, thú vật để tìm vết thương, vết sẹo. Nghĩa bóng: Bới móc tìm chỗ xấu của người khác để chê bai, chỉ trích.

          VĂN CANG THƯỜNG: Văn: chữ nghĩa lời văn. Cang: giềng mối. Thường: Thường hành. Bổn phận thường hành của người. Nam thì có Tam cang, Ngũ thường. Nữ thì có Tam tùng, Tứ đức (theo quan điểm thời xưa của người Á Đông).

          Tam Cang: Quân thần cang, phụ tử cang, phu thê cang.

          Ngũ thường: Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.

          Tam tùng: Tùng phụ, tùng phu, tùng tử.

          Tứ đức: Công, dung, ngôn, hạnh.

          BÀI TRÍCH: Bài bác, chỉ trích để gạt bỏ ra.

          CỔ TÍCH: Truyện xưa tích cũ. Những di tích lịch sử từ xưa lưu truyền lại.

 

LƯỢC GIẢI

(Từ câu 49 tới câu 58)

          Theo cơ thiên định, luật hằng chuyển của lý Tam nguơn nay là thời mạt pháp, người tâm trí tối đen, đời lắm Ma Vương khuấy rối; nhà Tiên cửa Thánh của ông cha ta trước kia, tức dòng giống Tiên Bang còn cửa đóng then gài, chưa đến thời Minh Vương xuất thế, trị chúng thế giới bình an.

          Hôm nay nếu có đứa con nào biết hướng thượng, qui ngưỡng thẳng về Tông Tổ ngày xưa: cũng như cha lành của nước Việt Nam sau nầy. Đó là thuận với lẽ Trời, hiện tại lo tu hành thảo cha ngay chúa, hiếu đễ song thân sẽ được sống sót đến ngày lập hội và được vinh Tông diệu Tổ. Ngược lại đứa con nào ngỗ nghịch thì sẽ bị luật Thiên đình trừng phạt, khó mong sống sót.

          Đây là gương kiến, tuy mang thân súc vật nhỏ nhoi, nhưng chúng biết sống vầy đoàn, nhường nhịn từ miếng ăn, chung sức bảo vệ tiếp sức lẫn nhau đến cùng. Huống chi ta đã mang thân người, linh hơn muôn vật sao chẳng chịu học đòi theo. Trái lại a dua theo lũ nịnh thần, hại dân bán nước làm tay sai cho bọn Thực dân, quên đi nền luân lý cổ truyền của dân tộc Á Đông đã có trên bốn ngàn năm văn hiến.

          Bọn Tây Dương quen lối sống hùng hổ, xâm lấn cõi bờ các nước nhược tiểu, làm tan nát cuộc đời và gieo biết bao hận thù truyền kiếp với chúng dân Đông Nam Á. Chúng ta còn lạ gì lũ giặc đó nữa.

          Nền luân lý Tam cang, Ngũ thường của Thánh nhơn xưa là giềng mối căn bản nhứt, các bậc Thánh triết đã truyền thừa qua nhiều thế hệ kế vãn khai lai, ảnh hưởng toàn cõi Trung Hoa lan dần qua Đông Nam Á, các bậc tiền nhân Việt Nam ta nhờ thấm nhuần giáo lý Khổng, Mạnh giữ vẹn nhân luân; phụng hành trung hiếu và giữ an bờ cõi một cách đắc lực.

          Thế mà hôm nay lũ nịnhn thần lại thổi lông tìm vết, đem bài bác biếm nhẻ người xưa. Nghĩ thật buồn cười cho bọn chúng.

 

CHÁNH VĂN

·  59.-Nghĩ vì đâu có cuộc giày bừa,

·  Cho lăn-lóc những người mới tỉnh.

·  Phải chi Phật lấy ngay bình tịnh,

·  62.-Rưới cho trần được tỉnh chút tâm.

·  Mãi để câu vi diệu thậm thâm,

·  Cho sanh-chúng rừng lâm khó mở.

·  Được gió nhẹ ngờ đâu dễ thở,

·  Bỗng dông luồng âm khí nặng-nề.

·  Phải ngóng chờ cho phụng gặp kê,

·  68.-Ấy thời đại Thánh Tiên trổ mặt.

 

CHÚ THÍCH

          GIÀY BỪA: Chà đạp một cách không thương tiếc.

          LĂN LÓC: Từng trải qua, từng nếm qua. Ví dụ: lăn lóc trong cuộc đời. Đức Thầy có câu: “Dù cho lăn lóc rán kiên trinh”.

          BÌNH TỊNH: Còn gọi tịnh bình. Tức bình đựng nước cam lồ. Theo truyền thuyết xưa, Phật Bà Quan Âm thường sai Hồng Hài Nhi theo hầu và cầm tịnh bình, trong chứa nước cam lồ và nhành dương liễu, khi hữu sự rưới xuống trần gian cứu độ người lâm tai nạn. Đức Thầy có câu: “Khẩn bái Quan Âm trút tịnh bình”.

          VI DIỆU: Vi: nhỏ nhặt, huyền bí; Diệu: Tốt đẹp. Đã đến chỗ tốt đẹp tinh tế.

          THẬM THÂM: Thậm: rất; Thâm: Sâu xa. Hết sức sâu xa. Đức Thầy có câu: “Thậm thâm đây đó niềm liên ái”.

          RỪNG LÂM: Núi rừng trùng điệp, khó tìm lối thoát hiểm. Đức Thầy có câu:

                   “Rừng lâm cây đá thấy ngày nay,

                     Mà ruột Năm non có các đài”.

          MÃI ĐỂ CÂU VI DIỆU THẬM THÂM, CHO SANH CHÚNG RỪNG LÂM KHÓ MỞ: Ý nói: nền đạo Phật rất cao sâu huyền diệu. Như câu: “Đạo Phật diệu diệu thậm thâm, Dầu mà tận thế ngàn năm vẫn còn”.

          Thật vậy, Đạo Phật gồm có pháp hữu và pháp vô. Nếu lấy bên hữu không cũng chẳng được. Ngược lại, nếu chấp bên vô cũng chẳng rồi. Có lúc phải dùng hữu và có lúc phải dùng vô. Hơn nữa, có lúc còn phải dụng quyền, dụng thiệt, dụng đốn và tiệm. Cho nên kẻ mới phát tâm không sao hiểu thấu nguồn gốc của Đạo.

          Kinh Phật thường ví nền Đạo như đám rừng, nếu ta thiếu duyên lành khó kiếm nẻo ra. Mặc dù thế nếu hành giả thật chân tu và sâu duyên cùng Phật pháp sẽ tìm được lối thoát một cách dễ dàng.

          GIÓ NHẸ: Tiếng gió đưa nhè nhẹ. Nghĩa bóng: Chỉ cho chính sách thực dân để lặng êm cho Đức Tôn Sư PGHH bành trướng nền Đạo.

          ÂM KHÍ: Âm:  thuộc về cõi chết. Khí: hơi khí lạnh lẽo, nặng nề như từ cõi âm đưa lại. Nghĩa bóng: Tin dời Đức Huỳnh Giáo Chủ như sét đánh bên tai, dự báo như một luồng âm khí nặng nề đưa đến.

          PHỤNG GẶP KÊ: Phụng: chim phụng. Ám chỉ Đức Thánh Vương. Kê: gà. Nghĩa bóng: Chúa Thánh sẽ gặp tôi hiền. Ấy là thời đại Phật, Thánh, Tiên trổ mặt.

 

LƯỢC GIẢI

(Từ câu 59 đến câu 68)

          Xét nghĩ: Không biết nguyên do vì đâu có cuộc giày bừa của quân đội Pháp, làm cho đất nước ta bị bệnh binh đau tang tóc, số người mới quy đầu Phật pháp phải một trận “thất điên bát đảo”, đạo tâm hơi lung lạc.

          Đức Huỳnh Giáo Chủ ước mong phải chi Phật Tổ dùng pháp cam lồ rưới xuống trần gian cho sanh chúng gội nhuần ân đức, đồng cải tà quy chánh thì phước đức biết bao, các Ngài cứ để tự nhiên cuộc thế xoay sao cũng được.

          Vả lại, nguồn chơn lý của đạo Phật từ ngàn xưa đến hiện giờ rất cao thâm huyền diệu. Khi cao tận trời xanh, khi thấp la đà mặt đất, khi rộng khắp bốn biển năm châu, khi nhỏ như hạt tiêu hạt cải. Hơn nữa, khi quyền, khi thiệt, lúc đốn, lúc tiệm. Làm cho người ít thiện căn khó mà nắm vững. Ví như kẻ đã lạc vào rừng khó tìm được nẻo ra.

          May mắn thay, vào thời mạt pháp được Phật Trời ân xá bớt tội căn, và được chư Phật sắc lịnh cho Đức Thầy giáng trần khai Đạo là điều diễm phúc. Nhưng thật tế lại có khác, giặc Pháp ngang nhiên tác oai, tác quái làm cho nền Đạo bị ngưng trệ, và tấm thân Đức Huỳnh Giáo Chủ phải xa cách môn đồ dấn thân trên đường gió bụi. Có thể nói một cơn lốc dữ dội đưa đến nền đạo PGHH, nhưng đó chẳng qua tại lẽ trời.

          Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyên nên: “Đợi cơ thiên địa xây vần đến, Chờ cuộc phong lôi đổi vận lành”. Trông đúng ngày chim phụng gáy, đó là ngày Đức Thánh Vương ra đời có đủ Phật, Thánh, Tiên lâm phàm trợ trưởng lập lại cuộc đời tân. Theo truyền thuyết xưa đời Ngũ Đế trị vì thiên hạ chim phụng xuất hiện đầy đồng nội. Đến đời Võ Vương thì chim phụng gáy ở chót núi Kỳ Sơn. Nếu cuộc thế xoay vần đúng lúc qua khỏi khúc quanh lịch sử mai sau chim phụng và gà có ngày được gặp mặt nhau tại trung tâm điểm miền Nam Việt Nam. Suy ra, giữa tín đồ và Đức Tôn Sư PGHH hoàn cảnh sau đây cũng na ná như vậy.

 

CHÁNH VĂN

·  69.-Càng nhìn dân lòng tơ siết chặt,

·  Đau chi bằng đau khúc đoạn-trường.

·  Ước sao mà thuận gió buồm trương,

·  72.-Đò bát-nhã rước tôi lương đống.

·  Ngày vui tươi cũng đà lố bóng,

·  Cớ sao đời còn mãi say-sưa ?

·  Không tìm Thầy đặng hưởng phước thừa,

·  76.-Ngày lập hội tay vin nhành quế.

·  Trau thân phận rạng danh hiếu để,

·  Thỏa dạ Thầy nơi chốn mây rồng.

·  Đừng chia lìa Bắc tổ Nam tông,

·  80.-Chỉ biết giống Lạc-Hồng Thượng-cổ.

 

CHÚ THÍCH

          ĐOẠN TRƯỜNG: Đứt ruột. Chuyện hết sức bi thảm và khổ cực, khiến người ta đến tan nát cõi lòng. Sách Sử ký xưa có ghi lại câu chuyện: Vua Hứa Tinh Vương và quần thần đi săn đến một vùng núi nọ gặp hai mẹ con khỉ đột đang chuyền nhảy trên cành. Hứa Tinh Vương lắp tên bắn cả hai. Khỉ mẹ nhờ lanh tay nên bắt tên kịp, khỉ con yếu đuối nên bị trúng tên. Hứa Tinh Vương sai người trèo lên cây lôi khỉ con xuống và vác đi. Lúc đó khỉ mẹ rất đau lòng từ trên cây buông tay rớt xuống đất. Quăn lính bắt cả hai đem về trào làm thịt, khi mổ bụng cả hai mẹ con thì thấy khỉ con tuy bị tên nhưng ruột vẫn còn nguyên vẹn, còn khỉ mẹ tuy không bị tên nhưng ruột đứt từng đoạn, trông vào thật là thảm não. Hứa Tinh Vương trực nhận được hoàn cảnh đó, ông rất bùi ngùi cảm động, tự hối tận đáy lòng. Bắt đầu từ đó ông ra lịnh cấm chỉ đi săn. Và thời gian sau ông bỏ ngôi tự nguyện xuất gia, chỉ trong một kiếp đó Hứa Tinh Vương được đắc đạo. Ở đây Đức Thầy muốn xác định: Lòng Đức Tôn Sư nhìn cảnh chia ly giữa tình thầy tớ hiện giờ đứt từng đoạn ruột như khỉ mẹ vậy.

          THUẬN GIÓ: Xuôi theo chiều gió thổi. Nghĩa bóng: Đồng một quan niệm, một đưòng lối hay một chí hướng.

          BUỒM TRƯƠNG: Cũng gọi là trương buồm, mở buồm cho bọc gió.

          ĐÒ BÁT NHÃ: Cũng gọi là bát nhã thoàn. Bát nhã là một trong sáu pháp Ba la mật của chư Bồ Tát thường hành, nó có diệu năng đưa người từ bờ mê sang qua bến giác. Thật ra Bát nhã là một từ đặc dụng trong Phật pháp, bao gồm nhiều ý nghĩa.

          Văn tự Bát Nhã: Sự sáng suốt thông hiểu lý nghĩa mầu nhiệm trong kinh điển đạo Phật, do học rộng, nghe nhiều sưu tập mà đạt.

          Quán chiếu Bát Nhã: Cái trí thấu suốt phân biệt các pháp do tịnh lự tư duy mà mở thông.

          Thật tướng Bát Nhã: Cái linh trí sáng suốt sẵn có của mọi người (trí vô sư). Đức Thầy cho biết:

                   “Thuyền Bát nhã Ta cầm tay lái,

                   Quyết đưa người khỏi bến sông mê”.

          LƯƠNG ĐỐNG: Lương: cái rường nhà. Đống: cái đòn tay nhà. Rường và đòn tay là hai bộ phận quan trọng (không thể thiếu được) trong căn nhà. Nghĩa bóng: Kẻ bầy tôi quan trọng của đất nước. Đức Thầy bày tỏ:

“Liên hoa đua nở nụ cười,

Rước tôi lương đống chào người chơn tu”.

          VUI TƯƠI: Vui vẻ tươi tỉnh và phấn chấn. Thí dụ: Không khí vui tươi của ngày hội.

          LỐ BÓNG: Nổi lên, nhô ra. Bóng: hình dạng. Lố bóng: lộ hình dạng cho thấy rõ.

          SAY SƯA: Say đắm triền miên. Đức Thầy bảo: “Say sưa chuyện cổ nhắc chừng đời”.

          PHƯỚC THỪA: Phước: Tốt đẹp may mắn. Thừa: dư. Phước thừa: Trời Phật ban bố phước đức thừa sức.

          TAY VIN NHÀNH QUẾ: Trong sách “Tam Tự Kinh” có chép: Ngày xưa, ở đất Yên Sơn có nhà họ Đậu, là người phẩm hạnh hiền đức, thông minh học rộng biết nhiều. Gia đình khá giả, hạ sanh được năm người con. Ông Đậu giáo huấn các con đều nên người, ai cũng chuyên cần học tập, nên về sau đều thi đỗ được bổ làm quan nơi triều chính. Thật là một gia đình gương mẫu, đời sau sách sử ghi biên, văn gia ca ngợi. (Đậu Yên sơn ngũ chi đan quế, Danh thơm còn lưu để ngàn thu).

          HIẾU ĐỄ: Có lòng kính trọng cha mẹ và hòa thuận với anh em trong gia đình.

          MÂY RỒNG: Nghĩa chữ Long Vân. Rồng gặp mây thì tha hồ vùng vẫy. Nghĩa bóng: Tôi chúa gặp nhau tớ thầy sum hợp, thi cử đổ đạt. Đức Thầy có câu: “Gẫm đây đến cuộc mây rồng chẳng xa”.

          BẮC TỔ NAM TÔNG: Bắc Nam cùng chung giống con Hồng cháu Lạc.

          LẠC HỒNG: Còn gọi là Hồng Lạc, tức họ Hồng Bàng sanh ra Lạc Long Quân, vị vua đầu tiên nước Việt Nam. Gọi chung Hồng Bàng và Lạc Long Quân là “Hồng Lạc”, tức tổ tiên người Việt Nam. Cổ thi có câu: “Nhớ câu ngọc bổn thủy nguyên, Cháu con Hồng Lạc lưu truyền ngàn xưa”, và Đức Thầy cũng bảo: “Quyết chí nâng niu giống Lạc Hồng”.

          THƯỢNG CỔ: Còn gọi là Thương nguơn (thời xa xưa). Thời con người còn ăn lông ở lổ. Đức Thầy có câu: “Huờn lai Thượng Cổ mới bình yên”.

 

LƯỢC GIẢI

(Từ câu 69 tới câu 80)

          Càng nhìn dân lòng từ của chư Phật càng ruột thắt tơ vò. Ôi thảm cảnh cha xa con, Thầy lạc tớ diễn ra trên thật tế thật phũ phàng đứt ruột. Kẻ đi người ở bùi ngùi giọt lệ ướt đẫm bời mi, dầu ta lòng gan sắt đá cũng không nén đước tức tửi. Thật là cảnh đoạn trường chư từng có trên lịch sử Việt Nam.

          Dù thế Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng ước mong sao trên đường phiêu bạc được thuận gió xuôi buồm, thuyền chèo mát mái. Con thuyền Bát nhã của Ngài được tự do đưa rước những tôi lương đống, chào đón những kẻ chân tu để qui hồi cựu vị.

          Đức Tôn Sư PGHH cho biết thêm ngày lập hội nơi miền Bảy Núi cũng không còn xa lắm, sắp lố dạng nay mai. Cớ sao đời cứ mãi say sưa trụy lạc ? Không chịu quay về nền xưa nếp cũ tìm gặp Đức Thầy để tiến xa trên đường tu tỉnh, hầu hưởng được ân thừa của Trời Phật ban bố; và ngày thi cử được chiếm bảng vàng.

          Một lần nữa, Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyến khích nhơn sanh lo lập thân hành đạo cho tròn vẹn kiếp con người, làm rỡ ràng đứa con hiếu thảo và tỏ rạng danh Thầy trong ngày đại hội Long Vân sắp đến.

          Tinh thần đạo Phật vốn chủ trương đoàn kết, tương trợ lẫn nhau như con một cha, không phân biệt đông, tây, nam, bắc, bến bờ. Vì sao ? Vì toàn thể dân tộc Việt Nam vốn phát sinh từ gốc Lạc Long Quân họ Hồng Bàng, thượng cổ thời đại.

CHÁNH VĂN

·  81.-Tai nghe chi những câu ái-ố,

·  Lòng từ-bi chớ cố lời gièm.

·  Đạo hiểu rồi ngon tợ gỏi nem,

·  84.-Tuy cõi thế lấm-lem trần-tục.

·  Mây ganh hờn đầy lòng nghi-ngút,

·  Giữ dạ trong đừng đục mới mầu.

·  Thân bần tăng mặc bộ sồng nâu,

·  88.-Cuộc thiên-lý một bầu đều hãn.

·  Đến kỳ thi danh Thầy chạm bảng,

·  Trên đài cao gọi các linh hồn.

·  Nay ngu khờ len-lỏi hương-thôn,

·  92.-Sau đắc Đạo tiếng đồn bốn biển.

 

CHÚ THÍCH

          ÁI Ố: Ái: thương. Ố: ghét. Thương ghét.

          LÒNG TỪ BI: Từ: hiền lành; Bi: thương xót. Từ bi là hai trong bốn đại đức của chư Phật (Từ, bi, hỉ, xả).  Ý nói: Người Phật tử lúc nào cũng điêu luyện tâm thương xót tất cả muôn loài, không nhớ lời gièm siễm, vì đó là tánh xấu xa ích kỷ.

          GỎI NEM: Gỏi là thức ăn được trộn nhiều thứ như: Cá thịt, đậu hủ, các thứ rau, giấm, chanh. Nem: Thức ăn làm bằng thịt, vỏ bưởi…trộn lẫn với các thứ gia vị khác, gói bằng lá chuối, lá dừa để vài ba bữa lên men mới sử dụng. Người xưa thường nói: “Nem công chả phượng”. Gỏi nem là hai thức ăn ngon, thích khẩu mọi người. Nghĩa bóng: Đạo đức vốn hợp với lý lẽ chân thật, được mọi người tôn kính chấp nhận. Đức Thầy đã so sánh: “Mùi đạo diệu gỏi nem khó sánh”.

          LẤM LEM: Dính dơ nhiều.

          TRẦN TỤC: Trần: bụi bặm. Tục: nơi mọi người đang ở. Cõi đời đầy bụi bặm mà chúng sanh đang sống. Đức Thầy có câu: “Lánh nơi trần tục học hành đàng Tiên”.

          GANH HỜN: Ganh: ghen. Hờn: giận dỗi. Cụ Nguyễn Du có câu: “Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”.

          NGHI NGÚT: Bốc cao lên cuồn cuộn, lan tỏa khắp nơi. Đức Thầy có câu: “Hương đăng nghi ngút lễ vọng cầu”.

          BẦN TĂNG: Bần: nghèo. Tăng: thầy tu. Tiếng các thầy tu tự xưng một cách khiêm nhường. Đức Thầy có câu: “Quày đầu hướng thiện bần tăng dắt dùm”.

          SỒNG NÂU: Sồng (sùng). Giống cây có lá dùng để nhuộm màu đen. Nâu: loại cây leo, có trái màu dà sẩm để làm thuốc nhuộm. Nghĩa bóng: Người quy y đầu Phật. Trần Tế Xương có câu: “Cửa Phật quanh năm vẫn áo sồng”. Và Truyện Kiều có câu: “Nâu sồng từ bén màu thiền”. Ông Thanh Sĩ cũng cho biết:

                    “Những bộ áo sồng nâu đâu vắng,

                     Se sua đồ xinh xắn lụa the”.

          THIÊN LÝ: Thiên: ngàn. Lý: dặm. Nghìn dặm. Nghĩa bóng: Rất xa xăm, rất dài.

          CHẠM BẢNG: Chạm: đụng nhẹ vào vật gì. Bảng: vật có mặt phẳng thường bằng gỗ, dùng để viết hoặc dán nội dung thông báo vào đó cho người xem. Chạm bảng: Ghi khắc tên tuổi những nhân vật có công trạng với nước với dân hay Đạo pháp. Ở đây Đức Thầy cho biết: Ngày hội thi sắp đến thanh danh Ngài được khắc ghi trên bảng vàng.

          LINH HỒN: (Xem STTĐ, trang 199, cột 2).

          LEN LÕI: Chen mình vào giữa đám đông, hoặc chỗ khó đi một cách vất vả. Đức Thầy có câu: “Ta thương đời len lõi xuống trần”. Ở đây Đức Thầy muốn nói: Ngài khờ khạo phải len lõi tân thôn quê dạy đời một cách quá cực nhọc.

          HƯƠNG THÔN: Xóm làng. Đức Thầy có câu: “Hương thôn bổn đạo lo âu mối giềng”.

 

LƯỢC GIẢI

(Từ câu 81 tới câu 92)

          Lỗ tai người biết Đạo phải luyện tập không cho phật ý khi nghe tiếng huyễn lời gièm hay tiếng nịnh hót. Vì người tu đầy lòng bác ái vị tha, từ, bi, hỉ, xả. Được thế mới đúng đường chơn lý Phật gia.

          Gỏi nem là thực phẩm ngon nhất trong buổi tiệc, nó là món cao lương từ thành thị đến thôn quê. Cái lý đạo nếu chúng ta nắm bắt được và hành trì theo nó còn hơn gỏi nem nữa. Mặc dù chúng ta đang sống trong cõi tục trần, đầy bùn trịn, nhưng người hiểu Đạo sẽ được vươn lên khỏi chất ô trược bợn nhơ.

          Cái tâm ganh hờn ghét ngỏ, nếu chúng ta còn chất chứa trong lòng nó sẽ cao vút tận chín tầng mây, đời đời kiếp kiếp chuyển luân trong cõi thế để trả cái nghiệp oan oan tương báo. Là phật tử phải luôn luôn tiêu diệt chúng, bằng cách: “Giữ dạ trong đừng đục mới mầu”. Nghĩa là phải bỏ tất cả lòng ham muốn, tánh kiêu ngạo, tật đố, gièm siễm, dua nịnh, ích kỷ, tư tâm, sự gây gổ mê đắm trong bể dục tình và sự phiền não nó làm cho náo loạn cõi lòng.

          Bản thân Đức Giáo Chủ hiện giờ tuy bên ngoài khoác bộ sồng nâu của người chơn phật tử nhưng Ngài vẫn là một cao đệ của Đức Phật Tổ Thích Ca xưa kia, nên cuộc sinh hóa vận hành trong trời đất của vũ trụ càn khôn Ngài đều biết rõ, và biết một cách chính xác.

          Tuy hiện giờ Đức Huỳnh Giáo Chủ giả dại giả ngu vào lòn ra cúi, ở trong hang cùng ngõ hẻm. Nhưng sau nầy Ngài sẽ là một vị an bang xuất chúng, phò trợ Đức Thánh Vương ở thời Thượng nguơn tới đây. Chừng đó thanh danh Thầy sẽ rạng rỡ khắp năm châu rồi Ngài sẽ hoàn thành sứ mạng: “Chọn những đấng tu hành cao công quả ban cho xứng vị, xứng ngôi. Người đủ các thiện căn để giáo truyền đạo đạo, định ngôi phân thứ gây cuộc hòa bình cho vạn quốc chư bang”. Và Ngài sẽ hoàn toàn đắc đạo, tiếng đồn vang xa bốn biển.

 

CHÁNH VĂN

·  93.-Giảng với sấm ra tài sửa kiểng,

·  Kệ cùng ca lựa tuyển con lành.

·  Tuy là Ta không thể sanh-thành,

·  96.-Nhưng thương hết ra tài dạy-dỗ.

·  Đời phải biết suy kim nghiệm cổ,

·  Thông cơ-đồ dựng nghiệp Thánh Hiền.

·  Ta quyết lòng rứt nợ oan-khiên,

·  100.-Cứu bá-tánh khỏi nơi lao-khổ.

 

CHÚ THÍCH

          GIẢNG VỚI SẤM: Giảng: giải thích cho hiểu rõ bài vận văn khuyến tu. Sấm: những lời dự đoán về tương lai do những câu truyền khẩu hay sách xưa để lại.

          SỬA KIỂNG: Sửa cây cảnh cho có giá trị và trồng các loại hoa quý hiếm. Nghĩa bóng: Lo trau dồi đạo hạnh hằng ngày được trở nên tốt đẹp. Đức Thầy có câu:

“Biết lo sửa kiểng trồng huê,

Thơm tho gia trụ danh đề tổ tông”.

          KỆ CÙNG CA: Kệ: là thể văn trong Kinh Phật. Thường cứ một thiên Kinh thì có một bài Kệ, để tán thán hoặc giải thích đoạn Kinh đó. Như trong quyển Khuyến Thiện, Đức Tôn Sư PGHH sáng tác hai bài Kệ: “Tiếng kệ từ bi…” và tiếng kệ “Đêm thanh”. Và trong kinh Pháp Bửu Đàn, Đức Lục Tổ có viết bài kệ phá tướng: “Bồ đề bổn vô thọ…” hay sư Thần Tú viết bài Kệ chấp tướng như sau: “Thân thị bồ đề thọ…” Ca: những bài vận văn ca tụng công đức hay giáo pháp của chư Phật. Như trong kinh Phật có bài “Chứng Đạo Ca”.

          LỰA TUYỂN: Lọc lừa, kén chọn. Đức Thầy có câu: “Hội triều đình các quan lựa tuyển”.

          SANH THÀNH: Sanh: đẻ ra, nuôi dưỡng và dạy dỗ cho nên người. Thành: thành công. Tiếng đệm cho chữ sanh. Nghĩa bóng: Nói đến công ơn cha mẹ. Đức Thầy có câu: “Ham công danh quên chữ sanh thành”.

          DẠY DỖ: Chỉ dạy, dỗ dành. Ở đây Đức Thầy muốn nói: Ngài không bỏ rơi một chúng sanh nào dù: Ngu trí, dốt nát hoặc siêng năng. Nếu có căn duyên quày đầu hướng thiên là độ tận, và đùm bọc đến nơi đến chốn.

          SUY KIM NGHIỆM CỔ: Xét chuyện nay nghĩ đến chuyện xưa.

          CƠ ĐỒ: Cơ: nền móng. Đồ: mưu tính. Sự nghiệp vững chắc. Đức Thầy có câu: “Chừng nào thấy được cơ đồ”. Ý Đức Thầy muốn nói: Muốn an bang tế thế phải thông hiểu binh thơ đồ trận, đầy thao lược mới dựng nên thời thế, cơ nghiệp của Thánh Hiền. Như ông Khương Tử Nha giúp nhà Châu dựng nên cơ nghiệp trị vì suốt 800 năm, hoặc Trương Tử Phòng phò trợ Lưu Bang thống nhất lãnh thổ Trung Hoa, xây dựng đất nước thanh bình, toàn dân lạc nghiệp cũng suốt thời gian dài.

          THÁNH HIỀN: (Xem CT bài Sa Đéc, chung tập).

          OAN KHIÊN: Oan: oan ức. Khiên: tội lỗi. Bị kết tội một cách oan ức. Ở đây ý Đức Thầy quyết một lòng rứt sạch nợ oan tương báo từ nhiều kiếp đến giờ, dầu cho giặc Pháp kết án này án nọ, hay lưu đày ra sao cũng mặc. Miễn Ngài cứu an bá tánh đồng lo tu hành giải thoát cảnh Ta bà thống khổ.

          BÁ TÁNH: Trăm họ. Chỉ cho tất cả mọi người.

          LAO KHỔ: Cực nhọc, lao đao khổ sở. Ý nói: Còn mắc trong vòng ràng buộc của hóa công và giặc Pháp.

 

LƯỢC GIẢI

(Từ câu 93 đến câu 100)

          Kệ giảng và Sấm cơ của Đức Huỳnh Giáo Chủ cho ra đời dạy dỗ là Ngài đã ra công sửa chữa rất dày dặn. Nó có công năng đưa hành giả từ phàm phu thành Phật Thánh. Ngài tuy không có công sanh dưỡng chúng dân, nhưng lòng thệ nguyện độ tận mọi người, mọi giới; không phân biệt ở giai cấp nào, quyết một lòng dạy dỗ và dìu dắt nhơn sanh xong đền nợ thế để trở về nhà Tiên cửa Thánh.

          Mang được thân người linh hơn muôn vật, chúng ta phải biết nghiệm suy những gương hạnh tốt đẹp của xưa nay. Nhất là phải lảu thông thao lược để phò vua giúp nước, đem tài trai nâng đỡ sơn hà và làm rạng danh con Hồng cháu Lạc, và lo dựng nghiệp Thánh Hiền, an bang tế thế để đưa tổ quốc đến tột đỉnh vinh quang hạnh phúc.

          Bản thân Đức Huỳnh Giáo Chủ dù khoác áo cà sa làm tăng sĩ độ đời, nhưng lúc nào cũng nguyện đem hết tài trai phụng sự tổ quốc khi đất nước cần dùng. Ngài nguyện đưa con Hồng cháu Lạc ra khỏi gông cùm lũ giặc ngoại bang, cứu độ dân sinh hết cơn binh lửa và giải ách nợ tiền khiên túc trái trong nhiều đời nhiều kiếp đã vay mang.

CHÁNH VĂN

·  101.-Gà lôi sớm mượn oai tố-hộ,

·  Có một ngày rớt lốt hổ-hang.

·  Nhu hiền hòa nhược ắt thắng cang,

·  104.-Đời cùng Đạo bi hoan, ly hiệp.

·  Tấm lòng thành gian-truân chớ khiếp,

·  Đức từ-bi tiếp-dẫn linh-hồn.

·  Nén hương nguyền cầu với Phật-Tôn,

·  108.-Ban phước-huệ cứu nàn dương-thế.

 

CHÚ THÍCH

          GÀ LÔI: Loại gà có thân hình cao, trông giống như con công, người ta thường nuôi để lấy thịt.

          TỐ HỘ: Nghĩa bóng: Con gà lôi mượn oai của con công để làm uy với đồng loại; ý nói mượn uy danh, hay tay của người khác để làm uy với mọi người.

          HỔ HANG: Xấu hổ. Ca dao có câu:

“Làm người sao chẳng hổ hang,

Thua em kém chị xóm làng cười chê”.

          Ý nói: Mình mượn uy người hay tay chân của người khác, một khi đổ bể hay lòi mặt nạ, rớt lốp khoác bên ngoài, rất là xấu hổ.

          NHU HIỀN HÒA NHƯỢC ẮT THẮNG CANG: Nhu: mềm mỏng. Hiền: đức hạnh, trung hậu. Hoà: thuận thảo, biết tiến thoái trong việc xử thế tiếp vật. Nhược: yếu. Mềm yếu: lấy nhu để thắng cang, lấy mềm mỏng, hiền hòa, nhu nhược để thắng lòng cương trực của đối phương. Trường hợp Lưu Bang thắng Hạng Võ xưa là chứng tích điển hình. Hay Tư Mã Ý thắng kế Khổng Minh trước kia, cũng là tấm gương ít có. Hôm nay ĐHGC học đòi theo gương của tiền nhân để thắng giặc Pháp.

          ĐỜI CÙNG ĐẠO BI, HOAN,  LY, HIỆP: Ý nói việc đời, việc Đạo đều diễn biến theo định luật: Buồn, vui, tan, hiệp. Hay nói một cách khác: Bỉ, thái, cùng, thông. Nghĩa là: Đời Đạo gì cũng nằm trong lý vô thường: Hết buồn đến vui, hết tan đến hiệp. Ý khuyên con người sớm tỉnh mộng trần gian và kiên tâm chịu đựng những hoàn cảnh khổ khó rèn đúc ý chí cang cường bất khuất để đạt những thành quả tốt đẹp.

          TẤM LÒNG THÀNH: Lòng là nghĩa của chữ tâm. Thành: thật thà, chất phác. Đức Thầy có câu:

“Đầu ngưỡng vọng đất trời minh chứng,

Tấm lòng thành quyết dựng Đạo đời”.

          Ở đây ý nói: Lòng thành đã toát ra, dù nhọc nhằn, lao khổ cách nào không bao giờ sờn lòng thối chí. Tục ngữ có câu:

“Mũi tên dồn hết tâm thành,

Bắn vào đá cứng, tan tành như chơi”.

          GIAN TRUÂN: Gian nan, khó khăn khổ sở. Đức Thầy có câu: “Gẫm trong thế sự còn đầy gian truân”.

          CHỚ KHIẾP: Không khiếp sợ.

          ĐỨC TỪ BI: (Xem CT ở các đoạn trước).

          TIẾP DẪN: Nói cho đủ “Tiếp Dẫn Đạo Nhơn”. Vị Phật ở Tây Phương Cực Lạc hằng độ chúng sanh trong cơn binh lửa. Ngài có sứ mạng tiếp dẫn vong linh những linh hồn có thiện duyên với chánh đạo, rước về Tây Phương Cực lạc. Theo truyện Phong Thần kể: Trong trận Tru Tiên và Vạn Tiên, Ngài cùng với Đức Chuẩn Đề hóa quang vào trận: Vừa dẹp giặc, vừa quăng túi gấm (bửu bối) ra thâu những vị bên Xiển giáo và Triệt giáo có đủ công đức rước về cõi Phật A Di Đà.

          LINH HỒN: (Xem chú thích đoạn trước).

          NÉN HƯƠNG NGUYỀN: Nén hương cầu nguyện thấu đến bên tai chư Phật để nhờ oai linh các Ngài cứu giúp chúng sinh.

          PHẬT TÔN: Tiếng tôn xưng đối với Ngài Phật Tổ Thích Ca. Đức Thầy có câu: “Lão đây vâng lịnh Phật Tôn”.

          PHƯỚC HUỆ: Phước: những điều may mắn tốt đẹp đưa đến, do nhân lành đã gieo từ trước. Huệ: sự thông minh thấu suốt mọi lẽ, do công tu dẹp sạch vô minh phiền não mà được.

          CỨU NÀN: Cứu hết tai nạn.

          DƯƠNG THẾ: Cõi chúng ta đang ở.

 

LƯỢC GIẢI

(Từ câu 101 đến câu 108)

          Làm người ở đời phải sống thật với chính lòng mình, không nên vay mượn oai của kẻ khác để hù dọa đồng loại; nhứt là mượn oai của ngoại bang, vì chúng không bao giờ để yên cho ta hưởng thụ. Chúng ta đời đời nhớ câu Tục ngữ  “Hết xôi, rồi việc” để răn lòng. Đã mang thân gà lôi, có hình sắc như giống công, chớ nào phải thật công đâu mà mượn oai công hù dọa đồng loại. Nếu ta cứ mượn oai của người khác, không sớm thì muộn sẽ lòi mặt nạ giả. Chừng ấy thật là xấu hổ.

          Trên phương diện đời hoặc Đạo, chúng ta phải lấy bài học “Nhu thắng cang, nhược thắng cường”. Gương của Lưu Bang thắng Hạng Võ, Tư Mã Ý thắng kế Khổng Minh để làm bài học gối đầu giường.

          Về sách sử cũng như thật tế, cuộc diện: Bi, hoan, ly, hiệp thường diễn ra trong xã hội loài người. Hết vui tới buồn, hết thạnh tới suy, hết hiệp rồi tan, hết tan rồi hiệp; đó là đặc tánh thường tình của hóa công sắp đặt.

          Lòng thành là điều kiện tất yếu để hoàn thành công việc đời hoặc Đạo, có nó chúng ta mới không khiếp sợ trước gian truần thử thách của trường đời. Các chư Phật hằng nguyện tiếp dẫn chúng sanh về cảnh giới Cực Lạc, nếu ta có đủ tấm lòng thành. Và Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng là một vị cứu tinh trong nhơn loại trong thế kỷ 20 và 21 này, Ngài luôn có bản nguyện và luôn cầu nguyện với mười phương chư Phật độ rỗi và ban phước huệ cho cả chúng sanh, trong thế giới Ta Bà được giải thoát tai nạn, và lo tinh tấn tu hành đến ngày công viên quả mãn.

 

CHÁNH VĂN

·  109.-Nhớ thuở nhỏ nhờ ơn bồng-bế,

·  Nay được nên vai-vế trưởng-thành.

·  Ngẫm cuộc đời hai chữ trược-thanh,

·  112.-Thân hành Đạo vang danh khắp chốn.

·  Nhưng ngặt nỗi gặp đời hỗn-độn,

·  Câu quân-thần phụ-tử rã-rời.

·  Khuyên tu hành hao sức tổn hơi,

·  116.-Chẳng hề mở miệng ra than trách.

 

CHÚ THÍCH

          BỒNG BẾ: Bồng con và bế cháu. Tục ngữ có câu “Tay bồng, tay bế”. Nghĩa bóng: Chịu đựng vất vả.

          VAI VẾ: Hai vai và hai vế. Đủ bộ phận của người thành nhân. Nghĩa rộng: Đủ tay chơn bộ hạ.

          TRƯỞNG THÀNH: Lớn khôn. Từ 18 tuổi trở lên là được trưởng thành. Dưới 18 tuổi trở xuống gọi là vị thành niên.

          TRƯỢC THANH: Trược (trọc): đục bẩn. Thanh: trong sạch. Nghĩa bóng: Sự đê hèn thấp kém, và sự thanh cao trong sạch.

          HỖN ĐỘN: Hỗn: lẫn lộn. Độn: rối loạn. Cuộc đời lộn xộn chưa phân định tà chánh, chúa tôi. Ai cũng giành nắm quyền hành trong tay. Ví như đời “Thập Bát Phản Vương” bên Trung Hoa. Hay thời loạn “Mười Hai Sứ Quân” bên nước Văn Lang chúng ta. Ở đây Đức Thầy ví thời Pháp thuộc cũng giống như hai thời loạn vừa kể trên.

          QUÂN THẦN: Quân: vua. Thần: tôi. Vua tôi. Ý chỉ bầy tôi không còn kính mến vua nữa.

          PHỤ TỬ: Phụ: cha. Tử: con. Tình nghĩa cha con. Ý chỉ bỏ hết lễ nghĩa luân thường đạo lý.

          RÃ RỜI: Chia ra từng mảnh vụn. Cảm thấy nát rời vì mệt mỏi. Câu “Quân thần phụ tử rã rời” ý nói: Giữa tình vua tôi, thầy tớ, cha con, chồng vợ không còn thắt chặt như xưa nữa. Mạnh ai nấy lo chiếm đoạt giềng mối để làm của riêng.

          TU HÀNH: Tu: sửa. Hành: làm. Đức Thầy có câu:

                   “Bởi chữ tu liền với chữ hành,

                   Hành bất chánh người đời mới nói”.

          HAO SỨC TỔN HƠI: Hao sức: tổn sức lực. Tổn hơi: giảm lần hơi thở. Ý nói: Tốn kém sức lực và mòn lần kiếp sống.

          THAN TRÁCH: Than van trách phận.

 

LƯỢC GIẢI

(Từ câu 109 đến câu 116)

          Nhớ lại thuở ấu thơ nhờ ơn cha mẹ sanh đẻ ẳm bồng, ân cần dạy dỗ cho mình được nên người, công lao thật là rộng lớn. Ca dao có câu:

“Công cha như núi thái sơn,

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”.

          Hôm nay mình được trưởng thành, làm nên danh phận trong xã hội là do sức khó nhọc của tổ tiên và cha mẹ mà ra.

          Suốt cuộc đời nếu đem ra suy gẫm tường tận nó chỉ nằm trong hai lẽ “trược và thanh”. Trược thì miệng thế chê bai biếm nhẻ. Thanh sẽ được người đời ca tụng nhắc nhở đến luôn. Và nhứt là “chơn Phật tử” sẽ được thế gian lưu truyền mãi mãi, thanh danh sẽ lan rộng khắp bốn biển năm châu, như lời Đức Huỳnh Giáo Chủ xác định:

                   “Ta bây giờ tu niệm tầm thường.

                   Sau danh thể sạ hương khắp chốn”.

          Nhưng ngặt nỗi sanh bất phùng thời, chưa gặp vị chơn chúa, nên cuộc đời đảo lộn, không ra thể thống gì cả: Giữa tình cha con, chồng vợ, giữa nghĩa kim bằng, ân thầy trò và vua chúa, không còn trật tự như xưa nữa: Tất cả đều rã rời tan nát. Thật là một thời đại suy thoái chưa từng thấy trong lịch sử Việt Nam.

          Đức Tôn Sư PGHH ra đời dạy Đạo dùng đủ lời lẽ giải bày, hao sức tổn hơi và chịu nhiều gian khổ, nhưng Ngài không bao giờ mở miệng ra than trách. Vì sao ? Vì mang lấy sứ mạng, vì vĩ nghiệp của đấng cha lành trong tam cõi, vì muốn phục hưng nền đạo pháp bị bóp méo sự thật, vì muốn phò trợ Đức Thánh Vương trong tương lai, và vì muốn chọn người có đủ thiện căn để giáo truyền Đại Đạo trong thời Thượng nguơn sắp đến, nên Ngài tự nguyện “Ta chịu khổ, khổ cho bá tánh”,

 

CHÁNH VĂN

·  117.-Hãy bỏ dứt tánh tình kiêu-cách,

·  Các con lành khá chọn ngay đường.

·  Tuy thân Thầy lướt cuộc gió-sương,

·  120.-Mà thỏa chí tang-bồng hồ-thỉ.

·  Câu trượng-phu là trang nghĩa-sĩ,

·  Chữ anh-tài của đấng trung-lương.

·  Phận tu hành đạm bạc rau tương,

·  124.-Miễn cầu được an-khương bốn bể.

 

CHÚ THÍCH

          TÁNH TÌNH KIÊU CÁCH: Tánh tình tự cao tự đại, kiêu căng tự đắc. Nghĩa bóng: Tự cho mình là hay là giỏi hơn người. Đức Thầy có câu: “Giết sanh vật đầy lòng kiêu cách”.

          NGAY ĐƯỜNG: Còn gọi đàng ngay. Tức là con đường ngay thẳng, chơn chánh đúng theo đạo lý. Nghĩa rộng: Đúng chơn lý, đúng lẽ phải, đúng đối tượng và hợp thời đại.

          GIÓ SƯƠNG: Gió: Luồng không khí chuyển động từ vùng có áp suất cao đến vùng có áp suất thấp, thường gây cảm giác mát hoặc lạnh. Sương: hơi nước gồm những hạt màu trắng, rất nhỏ làm đọng lại trên cây cỏ vào ban đêm hoặc buổi sớm mùa lạnh. Nghĩa rộng: Chỉ sự chịu đừng vất vả gian lao cuộc đời xông pha gió bụi.

          TANG BỒNG HỒ THỈ: Tang: cây dâu. Bồng: cỏ bồng. Hồ thỉ: cung tên. Bên Trung Hoa có tục lệ, khi sanh người con trai thì dùng gỗ bằng dâu, tên bằng cỏ bồng bắn ra bốn hướng trên trời và dưới đất để cầu chúc đứa bé ngày sau lớn lên vùng vẫy dọc ngang, lập công danh hiển hách. Ông Nguyễn Công Trứ có câu:

                 “Vòng trời đất dọc ngang, ngang dọc,

                   Nợ tang bồng vay trả, trả vay”.

          TRƯỢNG PHU: Người đàn ông giỏi giắn, đầy đức hạnh. Nghĩa là người có chí lớn. Đức Thầy có câu:

“Trượng phu chí cả dọc ngang,

Dạo trong bốn biển mới trang Thánh Hiền”.

          NGHĨA SĨ: Nghĩa: trọng lẽ phải hợp đạo lý. Sĩ: người có học thức. Người có học thức giỏi, ứng xử hợp với đạo lý và có chí khí hơn người.

          TRUNG LƯƠNG: Trung: ngay thẳng chơn  chánh. Lương: lành. Tôi trung lương chánh trực. Đức Thầy có câu: “Trung lương chánh trực dựa kề đài mây”.

          AN KHƯƠNG: An: yên ổn. Khương: vui vẻ, tráng kiện. An khương: được yên vui tận hưởng điều lành.

          BỐN BỂ: Còn gọi bốn biển. Chỉ chung những đất nước trên thế giới loài người chúng ta đang ở trên quả địa cầu. Gồm có: Thái Bình Dương, Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương và Bắc Băng Dương.

 

LƯỢC GIẢI

(Từ câu 119 đến câu 124)

          Người tu cần bỏ dứt tấm lòng tự cao tự đại. Nó là tâm ngã mạn; nó có từ ngày tạo thiên lập địa và là bản tánh hằng hữu của chúng sanh. Con người cũng vì nó luân chuyển trong sáu nẻo luân hồi. Là phật tử chúng ta nên chọn con đường chánh, đúng chơn lý Đạo Phật, đúng chánh pháp vô vi, đúng chân truyền của chư Tổ, chư Sư mới thỏa nguyện vọng người tầm sư học đạo. Vì thời này tà chánh còn lẫn lộn khó phân.

          Tuy xác thân Thầy hiện giờ chịu lắm phong ba bão táp, sự kềm kẹp của người Pháp, nhưng đó chẳng qua tại lẽ trời. Vả lại nhờ nó mà Thầy được luân lưu khắp chốn, thỏa chí tang bồng của đấng trượng phu quân tử:

“Càng đi càng biết nhiều nơi,

Càng đem chơn lý tuyệt vời phổ thông”.

          Hơn nữa, người anh hùng phải đặt mình vào chốn hiểm nguy không cho mềm lòng nản chí, kẻ trượng phu phải vùng vẫy hiên ngang, mới là trang tuấn kiệt. Người Pháp đặt Ngài vào hoàn cảnh khó xử, nhưng tấm thân Thầy đã hiến mình cho trần thế, nên xem đó là cơn thử thách, phải vượt qua tất cả những chướng ngại gai chông để tỏ rõ chí khí anh tài của trang lương đống nước nhà:

“Lò cừ nung nấu sự đời,

Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương”.

          Trên đường lập thân hành đạo cuộc sống của Đức Tôn Sư PGHH rất là đạm bạc, ngày hai bữa cơm tương là đủ, Ngài không đòi hỏi gì khác nữa, chỉ có tâm hồn hướng thượng và cầu mong cho bá tánh được an khương bốn bể, nhà nhà được lạc nghiệp, phát bồ tâm tu tiến đến ngày chung cuộc.

CHÁNH VĂN

·        125.-Rung chuông lành bằng muôn tiếng kệ,

·  Gọi hồn người hành thiện truy kinh.

·  Ra khuyên dân hẹn có sơn-minh,

·  128.-Dìu bá-tánh hứa câu thệ-hải.

·  Miễn tâm được hư-vô tồn-tại,

·  Sống ở trần hối-cãi tiền phi.

·  Sống làm sao vẹn chữ tu-mi,

·  132.-Sống vùng-vẫy râu-mày nam-tử.

 

CHÚ THÍCH

          CHUÔNG LÀNH: Chuông: Vật được đúc bằng hợp kim đồng, lòng rỗng, miệng loe tròn, phát ra tiếng trong và ngân dài khi kéo, rung. Lành: Hiền lành. Rung chuông lành: Rung chuông thức tỉnh việc làm lành để mọi người trở lại con đường quang minh chánh đại. Vì tiếng chuông nó có công năng tỉnh giác người còn mê ngủ. Nghĩa bóng: Kinh giảng so sánh như tiếng chuông, vì Kinh giảng có diệu năng thực tế, bằng ngôn ngữ im lặng, bằng tiếng nói tự đáy lòng, bằng vô vi pháp, hữu tướng, vô tướng:“Rung chuông lành bằng muôn tiếng kệ”. Đức Tôn Sư PGHH mượn tiếng chuông ngân để bộc lộ giáo pháp hữu vi, vô vi thật tướng của Thiền na. Ngài rung chuông lành bằng muôn tiếng kệ giảng để đưa tâm hồn chúng sanh lạc lỏng chơ vơ, trở về Chánh pháp nhãn tàng Niết bàn diệu tâm của Phật tổ Thích Ca Mâu Ni tự nghìn xưa, hôm nay đành quên lãng: “Đờn tây rồi lại đờn đông, Trách trong bá tánh gặp sông quên nguồn”. Tiếng kệ ấy là chánh pháp vô vi, là thật tướng của Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni trao cho ông Ma Ha Ca Diếp tại Hội Linh Sơn: “Đạo vô vi của Phật ân cần, Noi theo chí Thích Ca ngày trước”. Ngài còn ví Kệ giảng như tiếng đàn, nhưng đàn không dây không phím: “Lắng tai nghe rõ tiếng đờn, Không dây không phím oán hờn cũng không”. Qua đó chúng ta thấy Ngài rung chuông bằng Kệ Giảng, bằng giáo lý biệt truyền, bằng bản đàn tại chùa Lôi Âm trên non Linh Thứu.

                   “Chuông Linh Thứu ba hồi giục thúc,

                     Đờn Lôi Âm khải điệu êm tai”.

          Ta hãy lắng nghe tiếng chuông để cho tâm hồn ta lâng lâng thoát tục. Ta nghe Kinh giảng để lòng ta hành thiện truy kinh, hầu tìm hiểu nghĩa làm theo đắc đạo.

          Thật vậy, Kinh giảng có công năng hơn tiếng chuông chùa. Chuông chùa chỉ làm cho ta vơi bao niềm trần tục, vơi chớ không đoạn lìa hết được. Vả lại Kinh giảng đưa ta nhận chân cuộc đời là khổ hải, danh, lợi, tình là xiềng xích trói buộc con người vào hố sâu tội lỗi. Ngày trước ta không biết nên ta đam mê, hôm nay ta đã giác ngộ nên tự đoạn lìa; thế nên Đức Tôn Sư PGHH rung chuông lành bằng muôn tiếng kệ, chớ không rung bằng tiếng chuông chùa, thật là linh diệu biết bao.

          HÀNH THIỆN TRUY KINH: Làm việc thiện và truy tầm kinh điển, dụng ý Đức Huỳnh Giáo Chủ đưa hành giả từ chỗ mới phát tâm tu thân hành thiện đến chỗ truy tìm nghĩa lý để tiến xa trên đàng Phật pháp. Hành thiện không chưa đủ, vì nó mới bước sơ cơ. Phải truy kinh để mở mang trí tuệ. Đây là pháp Học Phật Tu Nhân căn bản mà mỗi tín đồ PGHH không thể thiếu được. Kinh kệ vốn là chìa khóa nhập môn để mở rộng kho tàng pháp hải, là kim chỉ nam đưa người tu không lầm đường lạc hướng, nên Đức Huỳnh Giáo Chủ đưa tín đồ nắm vững những then chốt và yếu lý của Đạo.

          SƠN MINH: Sơn: núi. Minh: thề nguyền. Do thành ngữ “sơn minh hải thệ” (non thề biển hẹn). Lấy non thề nguyền để chứng thật thân tâm của lòng mình.

          THỆ HẢI: Lấy biển làm chứng lời thề nguyền. Dụng tâm hành giả ngưỡng mong đất trời chứng giám: lấy núi non làm điểm tựa, lấy sông biển làm căn cứ cho lòng thành của con người đứng trong vũ trụ.

          HƯ VÔ: Hư: trống rỗng. Vô: không. Giữa khoảng trống không trên bầu trời. Nhưng trong khoảng không đó có thiên hình vạn trạng biến hóa khôn lường. Tâm được hư vô là tâm không dính mắc, không ô nhiễm, không điên đảo vì ngoại cảnh chi phối. Đức Thầy ước mong tâm hư vô đó vẫn tồn tại mãi với thời gian, với không gian vô cùng, vô tận, vô thỉ, vô chung. Và bản tâm đó sẽ được trời đất, núi non, sông biển chứng minh cho lòng phát thệ của Ngài.

          HỐI CẢI: Hối: ăn năn. Cải: Sửa đổi. Ăn năn lỗi lầm và tự nguyện sửa đổi

          TIỀN PHI: Tiền: trước. Phi: sai trái. Điều sai quấy trước kia đã gây nên.

          SỐNG Ở TRẦN HỐI CẢI TIỀN PHI: Con người sống trong trần phải biết tự giác, cải sửa những lỗi lầm mình đã gieo tạo từ nhiều kiếp trước. Có thế mới là đáng sống, đáng mặt anh hùng sanh trong vũ trụ. Vì bản thân chúng ta vốn do vô minh sanh ra, rồi đi hành động…đến lão tử. Nên người biết Đạo như Đức Thầy phải hối cải những cái lỗi lầm; và Ngài khuyên chúng ta hãy ghi nhớ trong lòng để cải sửa, những hành vi đen tối đã gây tạo.

          TU MI: Tu: râu; Mi: lông mày. Nghĩa rộng: Bậc tu mi nam tử (người đàn ông, con trai) Đức Thầy có câu:

“Hiền thần sách sử nêu ghi,

Miễu son tạc để tu mi trung thần”.

          VÙNG VẪY: Tung hoành khắp nơi.

 

LƯỢC GIẢI

(Từ câu 125 đến câu 132)

          Đức Tôn Sư PGHH rung chuông lành bằng muôn lời Kệ giảng, bằng chứng Ngài đã sáng tác kho tàng Thi Văn Giáo Lý toàn bộ. Đó là chìa khóa để mở bản tâm thật tướng, vô tướng trong xác thể con người.

          Ngài kêu gọi những linh hồn có thiện duyên phải nhứt tâm hành thiện và truy tầm Kệ giảng để tìm hiểu nghĩa đặng hành theo mới là đắc Đạo:

                   “Chuyên chú nghĩ suy từ nét dấu,

                   Cố công gìn giữ tánh thuần lương”.

          Ngài dạy Đạo khuyên dân thệ có núi non chứng giám. Ngài dắt dìu mọi người xin nguyện cùng biển cả chứng tri, trời đất có thấu chăng tấm lòng thành của Ngài !..

          Bản tâm của con người vốn vô hình vô ảnh, nhưng nó ẩn chứa tiềm tàng với muôn hình vạn trạng. Có khi hữu, khi vô, lúc quyền, lúc thiệt, khi đốn, khi tiệm. Nó vốn linh diệu vô cùng tận. Nên ví nó giống khoảng trống của không gian, u u, minh minh, huyền huyền, ảo ảo, nó vốn trường cửu với thời gian, nên nó không nằm trong xác thể của con người, nó vốn hư vô nên ngoài xác thân ta không có nó. Thật là mầu nhiệm biết bao !

          Làm thân con người phải biết cách sống: Sống sao tâm hồn thong thả an vui. Sống phải biết ăn năn những lỗi lầm của mình gây tạo nhiều kiếp đã qua. Sống phải biết vùng vẫy vươn lên cho rõ chí khí đấng râu mày nam tử. Sống làm cho vẹn chữ tu mi, mới xứng đáng con người sinh trong vũ trụ.

 

CHÁNH VĂN

·  133.-Tự như nhiên oai-phong thiên-tứ,

·  Bút thần-linh mượn mực tay đề.

·  E dương-trần công việc trễ-bê,

·  136.-Nên giục-thúc nhơn-sanh cày cấy.

·  Dụng Bá-Nha lên dây đờn khảy,

·  Lo cho đời qưên vóc ốm gầy.

·  Ngày hằng mong gặp hội Rồng-mây,

·  140.-Xanh men-mét cũng thây thịt xác.

·  Đi tới đâu giúp người khao-khát,

·  Ngặt giếng sâu khó múc mau đầy.

·  Trong suốt ngày làm việc lây-quây,

·  144.-Dùng giấy, mực trưng bày đạo-đức.

 

CHÚ THÍCH

          TỰ NHƯ NHIÊN: Tự: chính mình. Như: giống như, như là. Nhiên: vậy. Không rõ duyên do vì sao mình muốn như vậy.

          OAI PHONG: Oai (uy): sức mạnh. Phong: dung mạo thái độ. Oai phong là dung mạo thái độ uy nghi mạnh mẽ.

          THIÊN TỨ: Thiên: trời. Tứ: ban cho. Trời ban cho.

          THẦN LINH: Thần: Những gì có tính cách thiêng liêng. Linh: hiển hiện. Những gì có tính linh hiển làm cho người ta nhận biết.

          DƯƠNG TRẦN: Dương: cõi dương. Trần: bụi. Cõi chúng sanh đang sống. Đức Thầy có câu:

                   “Ước sao mình như cuội trên trăng,

                     Đặng soi khắp cả dương trần”.

          TRỄ BÊ: Còn gọi là bê trễ: Chễnh mảng phóng túng. Không có lề lối qui củ

          GIỤC THÚC: Giục giã thúc hối làm việc gì cho mau xong.

          NHƠN SANH: Nhơn: người. Sanh: sinh ra. Chỉ chung mọi người cùng sống chung trong quả địa cầu, không phân biệt màu da tiếng nói.

          CÀY CẤY: Làm ruộng nói chung, Nghĩa bóng: Sốt sắng tu hành.

           BÁ NHA: (Xem chữ Đờn Bá Nha trong STTĐ, trang 130, cột 2).

          HỘI MÂY RỒNG: Nghĩa của chữ hội Long Vân, ngày xướng danh những người đỗ đạt. Cổ thi có câu: “Mong con gặp hội Rồng Mây với người”.

          Ngoài ra còn có nghĩa: Hội tôi chúa trùng phùng. Cổ thi có câu:

“Trời sinh trời chẳng phụ nào,

Long Vân gặp hội anh hào ra tay”.

          MEN MÉT: Da màu xanh nhợt nhạt, yếu ớt.

          KHAO KHÁT: Thèm muốn gắt gao. Đức Thầy có câu: “Lúc khô hạn đi đồng khao khát”.

          LÂY QUÂY: Cũng viết loay hoay. Làm nhiều việc, hết việc nầy đến việc khác, quây quần tối ngày. Ở đây Đức Thầy muốn nói Ngài bận rộn nhiều việc: Nào trị bệnh độ đời, nào thuyết pháp độ đời, nào viết Sấm Giảng độ đời.

          TRƯNG BÀY: Trưng: chứng cớ. Bày: phô trương, kết đặt. Nghĩa rộng: Sắp xếp có bằng chứng rõ ràng. Đức Thầy có câu: “Trưng bày tích cũ đành rành”.

          ĐẠO ĐỨC: Đạo: Con đường hợp lẽ phải, đúng chơn lý, sát thực tế, đạt dến chỗ tuyệt đối. Đức: Tâm lành đến chỗ tột lành. Đạo Đức: Con đường đưa hành giả tiến đến chỗ tốt đẹp, từ thể xác đến tâm hồn; vạch một lối đi rất quang minh chánh đại để lòng mình hướng về chân thiện mỹ. Đức Thầy có câu:

                   “Việc đạo đức bất cần thối thắng.

                     Chữ tu hiền ngay thẳng lần hồi”.

 

LƯỢC GIẢI

(Từ câu 133 đến câu 144)

          Không biết tạo sao tự nhiên Đức Thầy có oai lực phi thường, dường như trời đã sắp đặt trước. Tự tay Ngài đã sáng tác bốn quyển Giảng một cách mau lẹ như ngọn bút thần.

          Đức Tôn Sư PGHH sợ chúng sanh chểnh mảng công việc cày cấy ruộng nương, cũng như ruộng lòng nên hằng giục thúc mọi người sốt sắng lo làm ăn và lo tu hành chơn chất.

          Bá Nha xưa có tài đờn tuyệt diệu, trong nước không ai sánh bằng. Y tự mãn khắp thiên hạ khó tìm được bạn tri âm. Nhưng qua đôi phút chờ đợi thắc thỏm, câu nghi vấn của y được phá giải. Đức Huỳnh Giáo Chủ mượn tài đờn của Bá Nha lồng vào giáo pháp bằng lời Kinh tiếng Kệ. Ngài “Đờn những câu tỉ mỉ rung hồn”. Ngài “Lo cho đời quên vóc ốm gầy, Xanh men mét cũng thây thịt xác”. Mục đích cầu mong mọi người mau gặp hội rồng mây, mới thỏa nguyện vọng của mình.

          Ngài càng đi càng giúp đồng bào giải cơn khao khát, hưởng trọn niềm vui phấn chấn tu hành. Nhưng ngặt nỗi giếng nhà quá sâu, quá nhiều người mê muội, nên Ngài khó múc cho mau đầy được. Dù vậy nhưng Ngài không chùn bước chí khí hiên ngang: Hết trị bịnh độ đời, hết thuyết pháp khuyến tu đến tiếp tục viết Sấm thi độ chúng. Ngài làm việc suốt ngày đêm với đại công trình “Hoằng pháp lợi sanh”.

 

CHÁNH VĂN

·  145.-Biết bao giờ gái trai tỉnh thức,

·  Trẻ cùng già đồng hiểu Phật gia.

·  Nương hùng-phong trổi giọng cuồng-ca,

·  148.-Ca cuộc thế ca câu khuynh-đảo.

·  Buổi nhập tiệc trải qua tràng pháo,

·  Khói mịt-mù văng xác đầy đường.

·  Cuộc đời nay như ngựa buông cương,

·  152.-Khó dừng lại vó cu lụp-bụp.

 

CHÚ THÍCH

          TỈNH THỨC: Tỉnh: Hiểu biết. Thức: Biết. Bỗng nhiên tỉnh ngộ hiểu biết. Nghĩa bóng: Khi người được giác ngộ. Đức Thầy có câu: “Mau thức tỉnh tu thân kẻo trễ”.

          PHẬT GIA: Nhà Phật, đạo Phật. Đức Thầy có câu:

                   “Nền đại đạo lưu thông khắp cả,

                   Bậc Tiên hiền đều trọng Phật gia”.

          HÙNG PHONG: Hùng: mạnh mẽ. Phong: bộ dạng. Bộ dạng mạnh mẽ.

          CUỒNG CA: Cuồng: ngay dại, điên khùng. Ca: còn gọi là hát, giọng ngâm nga cao thấp. Cuồng Ca: Ca hát theo lối ngây dại, không có bài bản. Nhưng cuồng ca ở đây Đức Thầy có dụng ý giả làm bộ dạng điên điên khùng khùng, ca hát líu lo làm cho người Pháp không để ý đến Ngài.

          CUỘC THẾ: Còn gọi là cục thế. Cuộc diện hay cảnh trạng trong đời.

          KHUYNH ĐẢO: Khuynh: nghiêng. Đảo: xô ngã. Làm cho nghiêng ngã, sụp đổ. Đức Thầy có câu: “Xưa nước đã bao lần khuynh đảo”. Hoặc: “Thấy nhơn gian khuynh đảo tỏ bày”.

          NƯƠNG HÙNG PHONG TRỔI GIỌNG CUỒNG CA, CA CUỘC THẾ CA CÂU KHUYNH ĐẢO: Đức Tôn sư PGHH giả khùng, giả điên để lợi dụng nương theo sức mạnh của thời thế, Pháp quốc đô hộ, hát ca những bài có nội dung tinh thần yêu nước, yêu dân nhằm đánh thức một số người đang ngủ vùi trong cơn mộng. Ngài diễn ca: “Cuộc đời ly loạn bất an”, kế biến sang đất nước lâm nguy trải qua nhiều cảnh hãi hùng đưa đến làm khuynh đảo cuộc diện ở ngày mai.

          MỊT MÙ: Xa xôi, mù mịt. Không thấy gì. Đức Thầy có câu: “Cơn dông tố mịt mù bụi cát”.

          VÓ CU LỤP BỤP: Vó cu: còn gọi là vó câu: Móng con ngựa to chạy rất nhanh. Truyện Kiều có câu: “Vó câu khấp khểnh, bánh xe gập gềnh”. Lụp Bụp: Tiếng vó ngựa phi nhanh, chỉ nghe tiếng lụp bụp nện trên đường trường.

LƯỢC GIẢI

(Từ câu 145 đến câu 152)

          Nhà Phật, đạo Phật là một nền Đạo vô cùng mầu nhiệm, vô cùng thật tế đưa mình tới ngôi Tiên Thánh, thế mà thời nay ít có người tỉnh thức tu hành, nương theo giáo lý nhà Phật để hiểu chính xác nền Đạo Phật, nên Đức Huỳnh Giáo Chủ than thở đôi điều.

          Đức Tôn Sư PGHH giả dạng khùng điên để nương vào sức mạnh của giặc Pháp hát lên những bản hùng ca có nội dung yêu nước, yêu dân để thức tỉnh số người còn vong bản. Ngài ca hát về sự đời áo não năm châu, cuộc thế xoay vần và đất nước bị khuynh đảo ở ngày mai biến thiên sụp đổ.

          Giai đoạn 60 năm về trước đốt pháo vẫn thạnh hành, mỗi buổi tiệc hoặc mỗi cuộc lễ đều có đốt pháo để giúp buổi họp tăng phần long trọng, đầy phấn khởi. Có khi đốt suốt buổi, khói bốc hơi lan tỏa bịt bùng, xác văng tung tóe đầy đường sá.

          Cuộc diện nước Việt Nam ngày nay giặc Pháp hăng máu cai trị, đàn áp thẳng tay; và số người chạy theo cuộc sống đua đòi mới, ví như ngựa phi nước đại, giục vó buông cương khó mà dừng lại được, nếu muốn dừng chân phải trải qua chặng đường nữa. Ý Đức Tôn Sư PGHH nhắc khéo tín đồ và chúng sanh hiện tại.

 

CHÁNH VĂN

·  153.-Mặt nước biển lô-nhô lặn-hụp,

·  Chim đua bay, cá lại tranh mồi.

·  Ngọn thủy-triều nô-nức sục-sôi

·  Bầu trái đất một phen luân-chuyển.

·  Ta là kẻ tu-hành thiển kiến,

·  Xét thế-trần luận-biện đôi điều.

·  Chớ đâu nào bày việc trớ-trêu,

·  160.-Muốn giác-tỉnh người mê trở lại.

 

CHÚ THÍCH

          LÔ NHÔ LẶN HỤP: Mặt nước biển khi cao khi thấp, lúc trồi lên, khi tụt xuống cứ thế mà liên tiếp không lúc nào ngừng. Nghĩa rộng: Chỉ sự chinh chiến kéo dài.

          THỦY TRIỀU: Con nước lên xuống.

          NÔ NỨC: Háo hức, hăm hở. Đức Thầy có câu: “Nô nức nhau kiến thiết quốc gia”.

          SỤC SÔI: Dâng trào cao ngọn

          LUÂN CHUYỂN: Luân: bánh xe. Chuyển: xê dịch, quay. Nghĩa bóng: Luân hồi chuyển kiếp, còn trong vòng sanh tử. Đức Thầy có câu: “Khổ, khổ thương đời luân chuyển kiếp”.

          TU HÀNH: Tu: sửa. Hành: làm. Chấp nhận cải sửa việc xấu và làm theo việc lành, việc phải. Đức Thầy có câu:           “Bởi chữ tu liền với chữ hành,

                   Hành bất chánh người đời mới nói”.

          THIỂN KIẾN: Thiển: ít. Kiến: nhìn thấy, kiến thức, ý kiến nông cạn. Tiếng khiêm nhường dè dặt trong phát biểu, viết lách. Ví dụ: theo thiển kiến của tôi.

          THẾ TRẦN: Còn gọi là trần thế. Thế: đời. Trần: biụ. Cõi đời đầy bụi bặm.

          LUẬN BIỆN: Bàn luận giải bày. Bàn luận giải bày cho rõ ràng một vấn đề còn khúc chiết.

          TRỚ TRÊU: Né tránh ranh mảnh. Sự tráo trở né tránh. Đức Thầy có câu: “Trớ trêu tạo hóa ông bày trò chua”. Hoặc: “Chi bằng ta bỏ lối trớ trêu”.

          GIÁC TỈNH: Giác: biết. Tỉnh: hiểu biết tỉnh táo. Nghĩa rộng: Được giác ngộ hết mê lầm.

 

LƯỢC GIẢI

(Từ câu 153 tới câu 160)

          Đến ngày Phật Trời phân định: Cả thế giới phải chịu cảnh bom rơi đạn lạc, ba đào sóng dậy triền miên: “Chim đua bay cá lại tranh mồi”, nước lớn hiếp đáp nước nhỏ, quốc gia nầy sát phạt quốc gia kia, gây nên cảnh máu rơi thịt đổ chưa từng thấy trong lịch sủ nhân loại.

          Lúc biến thiên ngọn thủy triều cứ dâng cao mãi, nước văng tung tóe, sức nóng dữ dội có thể lên đến 90 độ C. Quả địa cầu phải một phen luân chuyển, thay đổi toàn diện: Đất đai, sông biển, núi non, luôn cả loài người và vạn vật.

          Đức Tôn Sư PGHH tỏ lời khiêm nhượng, Ngài là người ít hiểu biết, trí thức nông cạn, tu hành thấp thỏi; nhưng xét cuộc thế trần trong ngày biến thiên sắp đến, lòng bắt xót thương nên bàn luận điều hơn lẽ thiệt cho dân chúng tỉnh trí tu thân.

          Mục đích chính của Đức Huỳnh Giáo Chủ ra đời là để giác tỉnh người mê trở lại con đường lành; chớ Ngài không phải hạng người thêu dệt trớ trêu: “Nói xiên xỏ cũng không no béo”, vậy chúng dân nên mạnh tin để tiến xa đường về chân thiện mỹ.

 

CHÁNH VĂN

·  161.-Mong sanh-chúng học điều thông-thái

·  Rèn tâm lành bác-ái trau-tria.

·  Hành đạo thiền cấp-cấp sớm khuya,

·  164.-Lòng thương chúng khuyên-răn đủ thế.

·  Mà nào khác chợ trưa đồ ế,

·  Bán rẻ-rề ít kẻ hỏi mua.

·  Mảng lo theo lối mới tranh-đua,

·  168.-Lại bỏ ngón se-sua học-thức.

·  Thân hèn-yếu lại vô năng-lực,

·  Chẳng tìm nơi thuốc nhiệm sửa gân.

·  Miệng toàn lời bắt chước chúa Tần,

·  172.-Muốn chôn sống anh-tài nhu-sĩ.

 

CHÚ THÍCH

          THÔNG THÁI: Hiểu biết rộng rãi hơn người. Đạo Phật gọi là thế trí biện thông. Đức Thầy có câu:

                 “Học chữ nghĩa cho thông cho thái,

                   Đặng xuê xang đài các xe tàu”.

          BÁC ÁI: Bác: rộng lớn. Ái: yêu. Lòng thương yêu rộng lớn. Đức Thầy có câu: “Bác ái xả thân tầm đạo chánh”.

          TRAU TRIA: Dồi mài, sửa soạn cho đẹp. Đức Thầy có câu: “Mảng trau tria xác thịt thanh bai”.

          CẤP CẤP: Gấp gấp.

          SỚM KHUYA: Còn gọi khuya sớm. Ngày đêm. Nghĩa bóng: Tích cực với công việc. Đức Thầy có câu: “Khuyên ai khuya sớm gắng chuyên cần”.

          HÀNH ĐẠO THIỀN CẤP CẤP SỚM KHUYA: Yếu lý của PGHH là “Thiền Tịnh song tu”. Nhưng chỗ nầy Đức Tôn Sư PGHH tuyên dương Pháp môn Thiền tông, là pháp tu tự lực:“Tự mình đắm mê, tự mình giác ngộ”. Đây là pháp tối thượng thừa dành độ những bậc thượng căn, thượng trí. Vào thời Phật Thích Ca còn trụ thế, lần đầu tiên đi giác chúng, Phật đem pháp Thiền nầy đô năm anh em Kiều Trần Như. Chỉ sau một thời pháp năm anh em đều đắc đạo. Và từ đó Phật, Pháp, Tăng có đủ. Chính là pháp “Tứ Đế” và “Bát Chánh đạo”. Đức Tôn Sư PGHH tuyên dương như sau:

               “Thiền lâm Phật Thích thuở xưa kia,

                 Non Tuyết rèn ra Bát chánh kìa.

                 Phổ hóa dân lành trong khắp chúng,

                 Hoàn cầu bốn biển khắc danh bia”.

          Và từ đó Tổ Tổ tương truyền, trải qua 33 đời, từ Ấn sang Hoa, rồi lại bặt truyền. Hôm nay lại sang Việt. Trước tiên là vị Giáo tổ BSKH:

“Thọ truyền giáo đạo Thích Ca,

Mùi Thiền tâm ấn phép nhà nhiệm thay”.

          Hôm nay lại đến Đức Huỳnh Giáo Chủ:

                    “Đạo vô vi của Phật ân cần,

                   Nối theo chí Thích Ca ngày trước”.

          Ngài khuyên hãy kíp kíp rán hành đạo Thiền, suốt cả ngày đêm, không phân biệt giờ khắc. Vì đó là pháp môn tối diệu.

          KHUYÊN RĂN: Khuyên lơn, răn bảo.

          RẺ RỀ: Rẻ mạt, rẻ như bèo. Thí dụ: Món hàng nầy bán rẻ rề.

          MÀ NÀO KHÁC CHỢ TRƯA ĐỒ Ế, BÁN RẺ RỀ ÍT KẺ HỎI MUA: Đây là ĐHGC dùng lối văn ẩn dụ, so sánh ngầm, tỷ dụ ngầm. Ngài ví giáo lý như món hàng đem vào chợ bán rẻ rề, ngồi đến trưa mà chẳng có ai đến mua. Thật là buồn cười cho số phận. Vì quá yêu đời nên lặn lội xuống trần đặng chịu cảnh chê khen. Ngài đem giáo lý nhiệm mầu, có công năng cứu vớt và đưa con người từ một chúng sanh mê tối sa đọa tiến về bến giác siêu cao, thoát đọa trầm luân, thế mà ít người ân cần han hỏi.

          TRANH ĐUA: Giành giựt hơn thua.

          SE SUA: Khoe khoang bằng việc làm, điệu bộ với ý khoe khoang quần áo tiền bạc. Đức Thầy có câu: “Se sua nói nói cười cười”.

          HỌC THỨC: Trí thức thu nhận được qua quá trình học tập.

          HÈN YẾU: Yếu ớt không có can đảm.

          NĂNG LỰC: Khả năng đủ để thực hiện tốt một công việc.

          BẮT CHƯỚC: Làm theo một cách rập khuôn máy móc.

          CHÚA TẦN: Chúa nhà Tần (221-206 TTL). Tần Thủy Hoàng: Sau khi gồm thâu lục quốc (Yên, Hàn, Triệu, Ngụy, Tề, Sở) liền thống nhứt nước Trung Hoa, bãi bỏ chế độ phong kiến, xây Vạn lý Trường thành, trở thành ông Tổ chuyên chế ở Phương Đông, dùng chánh sách bạo ngược để cai trị dân, lung lạc sĩ phu, nhưng lòng người bất phục nên có việc đốt sách vở Thánh hiền và chôn sống học trò. Nói đến Tần Thủy Hoàng là nói đến chánh sách cai trị gắt gao tàn bạo. Đức Thầy có câu: “Bỗng hay đâu nghi ngút khói vua Tần”.

          ANH TÀI: Tài đức hơn người. Là người xuất sắc nhiều mặt. Đức Thầy có câu: “Chữ anh tài của đầng trung lương”.

          NHU SĨ: Còn gọi là Nho sĩ. Người học trò của Đức Khổng Tử. Người theo Nho giáo. Đức Thầy có câu: “Nhu sĩ lương hiền thêm cảm mến”.

 

LƯỢC GIẢI

(Từ câu 161 đến câu 172)

          Đức Huỳnh Giáo Chủ mong tất cả chúng sanh rán học hiểu về sự đời hay đạo đức mọi mặt đều thông thái. Nhứt là trau luyện tâm từ bi bác ái càng ngày mở rộng thêm ra, cho duyên Bồ đề in sâu vào tâm khảm.

          Hằng ngày phải lóng sạch phàm tâm, trở về với bản lai thanh tịnh, phải sống thật với lòng mình từ giây, từ phút không kể đêm ngày để tiến xa trên đường giải thoát. Đức Thầy vì quá thương xót chúng sanh nên dạy khuyên đủ lẽ.

          Nhưng với Thế kỷ XX vừa qua, lượng người thật tu thì ít, Đức Thầy ví việc đạo đức như món hàng đem ra chợ bán, ít thấy ai hỏi mua, chẳng khác bán chợ trưa đồ ế. Người đương thời cứ chạy theo lối sống mới tranh đua xa hoa trụy lạc của người phương Tây. Và lại tuyên truyền rằng: Người Âu Mỹ văn minh hơn mình, toàn là dân học thức.

          Đức Tôn Sư PGHH xác định, bản thân của người Việt chúng ta phần đông hèn yếu, và thiếu khả năng học hỏi, sao chẳng tìm phương thuốc thật hay điều trị, trước sửa gân cốt cho thân khỏe mạnh, sau điêu luyện khối tinh thần cho mạnh mẽ đặng chung lưng đoàn kết, xiết chặt tay nhau chờ thời cơ hưng hóa nước nhà. Cớ sao lỗ miệng phần đông nói a dua theo giặc Pháp, bắt chước bọn Tây Dương, bọn họ chủ trương cám dỗ nhồi sọ cho dân ngu để dễ bề cai trị. Họ lại theo chánh sách nhà Tần “Quyết chôn sống anh tài nhu sĩ”. Vậy toàn dân Việt Nam hãy mau thức tỉnh.

 

CHÁNH VĂN

·  173.-Nhưng mắc phải từ-bi lập chí,

·  Lược cùng thao, thao lược vẹn hai.

·  Của Thần Tiên đã sắp sẵn bày,

·  176.-Nhờ ơn mọn giúp thêm chí cả.

·  Miệng nhích môi đầy văn tao-nhã

·  Hạ bút thần thơ đã đề khai.

·  Khó làm cho Hiền-Thánh lung-lay,

·  180.-Chỉ tưới nước vung phân cây quí.

 

CHÚ THÍCH

          TỪ BI: (Xem CT đoạn trước cũng trong bài nầy).

          LẬP CHÍ: Nuôi dưỡng ý chí để đạt mục đích.

          LƯỢC THAO: Cách dùng binh. Gồm có: (Văn thao, võ thao, long thao, hổ thao, báo thao và khuyển thao) và Mưu kế (lược) gồm (Thượng lược, trung lược và hạ lược). Tức là người có mưu trí đảm đang, giỏi xoay sở. Tay thao lược.

          THẦN TIÊN: Thần: là bậc trung cang nghĩa khí, đầy lòng yêu nước thương dân. Sau khi chết được hiển linh. Đức Thầy có câu: “Dầu không siêu cũng đặng về Thần, Nhờ hai chữ trung quân ái quốc”. Tiên: là bậc thoát tục, sống an nhàn tự tại, thường “ngao du tứ hải, dạo khắp Tiên bang, cảnh an nhàn của người liễu đạo”. Thường trợ giúp những người mắc nạn và nhiều lúc phò trợ Thánh Vương.

          TAO NHÃ: Phong lưu tao nhã, lịch sự. Thí dụ: Văn chương tao nhã. Người phong lưu tao nhã.

          BÚT THẦN: Cũng gọi là thần bút. Bút của vị Thần. cây bút siêu hình có sức mầu nhiệm trên các bậc văn nhân thi sĩ.

          MIỆNG NHÍCH MÔI ĐẦY VĂN TAO NHÃ, HẠ BÚT THẦN THƠ ĐÃ ĐỀ KHAI: Miệng của Đức Thầy nói ra đầy văn chương tao nhã của một nhà khoa bảng. Bằng chứng Ngài thuyết pháp thao thao bất tuyệt. Với 107 vị trí trong vòng 2 tháng khuyến nông khắp Nam kỳ Lục tỉnh, nơi nào không giống nơi nào, đề tài đều khác nhau và Ngài không cần luận trước. Một nhà viết báo Nam Kỳ lúc đó phê bình tài diễn thuyết của Ngài: “Vô địch giải quán quân về môn diễn thuyết”. Đến tài viết lách chỉ trong vòng 2 tháng Ngài viết bốn quyển Giảng dài, mỗi quyển trung bình 700 câu. Điểm đặc biệt là viết một mạch, không bôi xóa. Thử hỏi có ai viết được như vậy chăng ? Đây chẳng phải bút thần là gì ?

          HIỀN THÁNH: Hiền: (Phạn ngữ= Bardra) Người có tài đức phẩm hạnh. Thánh: Bậc tài đức phẩm hạnh cao quí và bậc được thế nhân ca tụng tôn thờ khi sống và lúc chết. Đức Thầy có câu:

               “Chữ xúc pháp treo gương Hiền Thánh,

                 Tránh sáu đường cũng đặng về Thần”.

 

LƯỢC GIẢI

(Từ câu 173 đến câu 180)

          Với Đức Huỳnh Giáo Chủ là bậc noi gương cao cả của Đức từ phụ Thích Ca Mâu Ni. Ngài luôn luôn nuôi chí và lập chí, tài kiêm văn võ, thao lược vẹn hai: Chẳng những Ngài phục hưng nền đạo Phật, mà còn có sứ mạng phò tá Đức Thánh Vương trong ngày Thượng nguơn lập hội.

          Đây là công việc sắp bày của các Phật Tiên, các Ngài nung nấu chí khí thêm cho Đức Huỳnh Giáo Chủ. Thế nên, Ngài dùng tài biện luận thao thao bất tuyệt để thuyết giảng hoằng khai chánh pháp. Và dùng ngọn bút thần sáng tác kệ giảng thơ văn bằng ngôn ngữ Việt, lưu truyền hậu thế.

          Người Pháp lưu đày Đức Tôn Sư PGHH đến bao lâu đi nữa cũng không làm nao núng chí quyết tâm cao cả của bậc Hiền Thánh. Trái lại càng vun quén cho cây Bồ đề đạo hạnh của Ngài thêm sung túc.

 

CHÁNH VĂN

·  181.-Thêm mắc phải tay chàng Nhạc-Nghị,

·  Cận Thầy xưa định việc an dân.

·  Tiết trung-lương hiếu-nghĩa rạng ngần,

·  184.-Ông Bàn-Cử mẹ ghi chạm thịt.

·  Luận sơ-sơ cho dân rõ tích,

·  Để chờ ngày hoán võ hô phong.

·  Ban cho đời thoát chữ cay-nồng,

·  188.-Nay giục thúc câu quân tu ký.

 

CHÚ THÍCH

          NHẠC NGHỊ: Người thời Chiến quốc, làm tôi nước Triệu, thuở nhỏ ông luyện tập tinh thông binh pháp. Ở Triệu bị gièm pha bèn sang Ngụy, cũng chẳng được tin dùng. Nhạc Nghị xin ẩn trú tại nước Yên. Ông đi du thuyết các nước: Tần, Hàn, Triệu, Ngụy và Yên được năm nước phong làm Thượng Tướng Quân, kéo quân sang đánh nước Tề, vào đến Lâm Tri (kinh đô nước Tề) tịch thu rất nhiều vàng bạc châu báu cho Yên, trong vòng 6 tháng, Nhạc Nghị chiếm 72 thành của Tề Vương.

          Ông được vua Yên là Yên Chiêu Vương tin dùng. Làm nhiều người ganh tị. Sau đó vua Yên băng hà, Thái Tử Nhạc Tư lên ngôi, nghe lời bọn gian thần, nghi ngờ Nhạc Nghị có mưu tạo phản bèn tước hết binh quyền, khiến ông phải đào tị về Triệu.

          Vua Triệu biết Nhạc Nghị là người hiền tài nên trọng dụng, cho Nhạc Nghị ở Quan Tân gọi là Vọng Chư Quân. Nhạc Nghị đứng ra liên kết giữa Yên và Triệu gây sự hòa hiếu lẫn nhau, sau Nhạc Nghị được Yên và Triệu phong làm Khách Khanh, về sau ông mất ở Triệu quốc.

          THÊM MẮC PHẢI TAY CHÀNG NHẠC NGHỊ, CẬN THẦY XƯA ĐỊNH VIỆC AN DÂN: Nghĩa bóng: Ý nói chánh sách của quân Pháp thêm mắc phải tay ĐHGC không sao tiến triển được. Ngài ví mình như Nhạc Nghị thuở xưa, học đủ binh thơ đồ trận, tiến thoái dễ dàng và biết liên hiệp Nhựt để tạo thanh thế, xoay chuyển nước cờ chiếu bí, Ngài có đủ tài thao lược, định việc an dân cho dân tộc Việt.

          TRUNG LƯƠNG: Trung: ngay thẳng chơn chánh. Lương: lành. Tôi trung lương chánh trực. Đức Thầy có câu: “Chữ anh tài của đấng trung lương”.

          HIẾU NGHĨA: Hiếu: bảo dưỡng và tôn kính cha mẹ. Kinh Minh Thánh dạy: “Hiếu từ chi phụ thân: Cư tắc chí kỳ kính, dưỡng tắc chí kỳ lạc. Bịnh tắc chí kỳ ưu, tang tắc chí kỳ ai, tế tắc chí kỳ nghiêm, cố bất ái kỳ thân, như ái tha nhân giả, vị chi bội đức”.(Người con hiếu thờ cha mẹ, lúc ở tôn kính rất mực, khi nuôi hết lòng vui, khi bệnh phải lo lắng hết lòng, khi để tang phải hết lòng buồn, khi tế thì rất mực nghiêm trang, cho nên không yêu cha mẹ mà yêu người khác là trái đức vậy). Nghĩa: việc làm hợp với lẽ phải. Hiếu hạnh và tiết nghĩa.

          BÀN CỬ: Bí danh là Nhạc Phi, ông sinh vào đời Tống Vi Tông, quê ở huyện Thang Âm, phủ Tương Châu, tỉnh Hà Nam.

          Thuở nhỏ ông mồ côi cha, mẹ là bà Nhạc An Nhơn cho theo thụ giáo với ông Châu Đồng, học nghề văn nghiệp võ. Bấy giờ Tống Vi Tông mở khoa thi chọn hiền tài, Nhạc phi và bằng hữu đi thi. Quan giám khảo là Trương Ban Xương, Trương Tuấn và Vương Đạt, trước đó đã ăn hối lộ của Sài Quế. Nhạc Phi ở giữa đấu trường hạ được Sài Quế nên bọn họ tìm cách đuổi Nhạc Phi về quê.

          Trong lúc chưa gặp vận, gia trạch hàn vi, có lần bạn là Vương Tá tự động giới thiệu mua chức cho Nhạc Phi với lũ giặc Động Đình Hồ. Khi nghe biết câu chuyện đó, Nhạc Phi giận tím môi, nhưng đã nhận Vương Tá làm em nuôi, ông đành lặng thinh im tiếng. Do cớ sự xảy ra như thế nên mẹ là bà Nhạc An Nhơn biểu Nhạc Phi nằm dài, rồi bà vạch lưng lấy mũi nhọn xâm vào lưng khắc bốn chữ “Tận Trung Báo Quốc”. Do đó, sách vở và Đức Tôn Sư PGHH ghi lưu trong thanh sử: “Ông Bàn Cử mẹ ghi chạm thịt”.

          Sau đó giặc Kim phiên xâm loạn bắt vua Tống Khâm Tôn làm tù binh ở dưới giếng lạn, Khương Vương Triệu Cấu trốn thoát được, về tức vị lên ngôi là Tống Cao Tôn. Nhạc Phi được triệu về Kinh dẹp giặc. Lúc đầu được vua phong Thống Chế, sau có công được thăng chức phó Nguyên Soái, rồi đặc cách Ngũ Tinh Đại Nguyên Soái, và Võ Xương Khai Quốc Công Binh Bộ Thượng Thư Đại Nguyên Soái. Ông là người tận trung với Tống trào, lập nhiều công trận, sau bị gian thần Tần Cối mạo chiếu Vua triệu ông về Kinh giam vào ngục, lén giết tại Phong Ba Đình, lúc ấy Nhạc Phi mới được 39 tuổi. Thật là tấm gương trung lương hiếu nghĩa có một không hai trong lịch sử Trung Quốc.

          LUẬN SƠ SƠ: (Hơi sơ) luận sơ qua một lượt. Thí dụ: Sáng ra điểm tâm sơ sơ hết mấy chục bạc.

          HOÁN VÕ HÔ PHONG: Hoán: gọi mời. Võ: mưa. Một pháp thuật để gọi mưa hú gió.

          CAY NỒNG: Cay: đắng cay. Nồng: xông lên, tỏa lan. Sự cay đắng sâu đậm. Đức Thầy có câu: “Buồn ai châm chít chữ cay nồng”.

          GIỤC THÚC: Giục giã thúc hối làm việc gì cho mau xong.

          TU KÝ: Ở nhờ, tạm nhờ nơi khác. Đức Thầy có câu: “Hồ thiên tiểu ẩn quân tu ký”.

 

LƯỢC GIẢI

(Từ câu 181 đến câu 188)

          Chính sách cai trị của Thực dân ở miền Nam nước Việt không được thành công. Lý do vì gặp tay đối thủ là Đức Huỳnh Giáo Chủ. Ngài ví mình như tướng Nhạc Nghị thuở xưa, đủ tài thao lược, an bang tế thế, hay dùng đường lối định việc an dân. Hơn nữa gặp phải tay bản lĩnh trung lương chánh trực đó là ông Bàn Cử. ông nầy được mẹ chích vào lưng bốn chữ “Tận Trung Báo Quốc”, cho nên ông cứu dân cứu nước đến ngày cuối cùng. Đức Huỳnh Giáo Chủ hiện giờ cũng noi theo những tấm gương hy sinh cao cả đó.

          Đức Tôn Sư PGHH luận sơ qua cho dân rõ biết tích xưa để thấy rõ cục diện hiện tại. Ngài hiện giờ ẩn nhẫn để chờ dịp lành đưa đến hầu hoán võ hô phong, đem tài trai ra phụng sự tổ quốc.

          Đến ngày chung cuộc Đức Tôn Sư PGHH sẽ ban cho đời thoát chữ cay nồng, mọi người được hưởng một mùa Xuân an lạc. Thế nên hiện giờ phải nương nhờ tạm ẩn nơi quân Phiệt (Nhựt) cho qua thời buổi hầu sau nầy giải phóng dân tộc quê hương.

 

CHÁNH VĂN

·  189.-Ngày nào mà Phật Tiên tọa vị,

·  Ấy thời lai bình trị muôn dân.

·  Khắp các nơi chư quốc xưng thần,

·  192.-Trong bốn biển chúng dân lạc-nghiệp.

·  Theo dõi gót người xưa mới kịp,

·  Vừng mây lành ngũ sắc hào-quang.

·  Phật, Thánh, Tiên, Đông-Độ lướt sang,

·  196.-Miền Nam-địa phân chia đẳng cấp.

 

CHÚ THÍCH

          TỌA VỊ: Toạ: ngồi. Vị: thứ. Ngôi thứ địa vị được giành sẵn cho.

          BÌNH TRỊ: Cai quản ở trong vùng, trong nước được yên ổn. Đức Thầy có câu: “Dậu Thân bình trị trong ngoài âu ca”.

          MUÔN DÂN: Người sống chung trong đất nước.

          CHƯ QUỐC XƯNG THẦN: Nhiều nước láng giềng xưng là bầy tôi, đồng tôn trọng nước Việt Nam làm minh chủ.

          BỐN BIỂN: (Xem CT đoạn trước).

          LẠC NGHIỆP: Lạc: vui. Nghiệp: nghề. Việc làm vui vẻ, làm ăn. Đức Phật Thầy có câu: “An cư lạc nghiệp phước vô biên”.

          NGƯỜI XƯA: Bậc tiền nhân. Nghĩa bóng: Bậc đã nhiều lần chuyển kiếp độ đời, như trường hợp của Đức Phật Thầy Tây An (1849-1856), Giáo Tổ hệ phái Bửu Sơn Kỳ Hương. Đức Thầy nhắc lại:

“Chim ô đà dựa cầu Ngân,

Người xưa trở gót mấy lần ai hay”.

          Hoặc:

“Đời này chưa vẹn thảo ngay,

             Thì là khó thấy mặt mày người xưa”.

          NGŨ SẮC: Năm sắc: Xanh, đỏ, trắng, vàng, đen.

          HÀO QUANG: Hào: lông mày. Quang: sáng. Nơi chơn mày của Phật có những sợi lông màu trắng, phóng ra ánh sáng nên gọi là hào quang, một trong 32 tướng hảo của Phật, Đức Thầy có câu:

“Mắt nhìn thấy thần thông biến hóa,

Đức Di Đà hiện chóa hào quang”.

Hay là: “Hào quang chư Phật rọi mười phương”.

          PHẬT THÁNH TIÊN: Phật: Bậc đã hoàn toàn giác ngộ. Thánh: Bậc “sinh nhi tri” (không học mà biết) có học thức uyên bác, ăn ở hợp với đạo lý, được người đời kính trọng. Tiên: là tu tu trên núi, có pháp thuật và chứng đắc. Phật, Thánh, Tiên: Ba quả vị: Phật giáo, Nho giáo và Tiên giáo thường nhắc trong sách sử.

          ĐÔNG ĐỘ: Địa danh ở Phương Đông đối tượng với Tây Độ.

          NAM ĐỊA: Địa phận miền Nam Việt Nam (ám chỉ sáu tỉnh miền Tây thời Pháp thuộc).

          ĐẲNG CẤP: Thứ bậc, các hạng người trong xã hội.

LƯỢC GIẢI

(Từ câu 189 đến câu 196)

          Đức Tôn Sư PGHH xác định: Ngày nào các đấng Phật Tiên đều qui hồi cựu vị, đó là ngày chúng dân các nước được thái bình an lạc. Khắp các nơi đều được phép xưng thần, đồng tôn nước Việt Nam làm Minh chủ. Trong bốn biển không còn cảnh tàn khốc vì bom đạn hay nạn chiến tranh, thật là cảnh trời Nghiêu đất Thuấn trở lại.

          Muốn được hưởng cảnh thái bình như trên trong toàn dân phải theo dõi gót người xưa, nghĩa là hiện giờ phải lo thức tỉnh tu hành mới mong kịp chuyến đò chiều. Vì các Phật Tiên Thần Thánh hiện hào quang tìm kiếm người lành khắp cả sáu tỉnh miền Nam, đồng phân chia đẳng cấp để dìu dẫn chúng sanh trong thời Hạ nguơn tiến lên đời Thưọng nguơn Thánh đức.

 

CHÁNH VĂN

·  197.-Nước cờ mới nay đà khởi sắp,

·  Trổ tài hay biển lấp non dời.

·  Dưới cùng trên ảm-đạm khí trời,

·  200.-Cả thế-giới mưa hòa gió thuận.

·  Tạo nền móng Thánh-quân đạt vững,

·  Nơi triều-ca gầy-dựng tôi hiền.

·  Giờ mắc câu thiên lý vị nhiên,

·  204.-Nên còn đãi thiên oai nấy lịnh.

 

CHÚ THÍCH

          ẢM ĐẠM KHÍ TRỜI: Ảm: Sắc đen sậm. Đạm: nhạt. Một sắc đẹp lờ mờ không đậm hẳn (ở đây nói về cảnh vật hay nói về người) có nghĩa: Tối tăm. Khí trời: không khí, nơi cần thiết cho sự sống còn. Khí trời gồm có dưỡng khí, thán khí và nước. Đức Thầy có câu: “Tiết trời ảm đạm mịt mù gió mây”. Hoặc:

                   “Xuân sang ảm đạm ánh dương mờ”.

          THẾ GIỚI: Thế: đời. Giới: Đất đai nằm trong bầu trời, đồng nghĩa với vũ trụ. Tiếng gọi chung ám chỉ các nước trên toàn cầu.

          MƯA HÒA GIÓ THUẬN: Mưa gió thuận chiều. Nghĩa bóng: Cảnh đời an lạc, trên dưới thuận hòa, đất nước âu ca.

          THÁNH QUÂN: Vua Thánh. Chỉ vị Thánh Vương thời Thượng nguơn Thánh đức.

          ĐẶT VỮNG: Đặt: sắp đặt có nền nếp. Vững: chắc chắn. Đặt vững: Sắp đặt qui củ chắc chắn.

          TRIỀU CA: Triều: triều đình, nơi vua tôi hội hợp. Ca: khúc hát. Nghĩa bóng: Nơi chúa tôi hợp mặt để bàn việc triều chính.

          GẦY DỰNG: Xây dựng lập thành, dạy dỗ giúp đỡ hoàn thành công việc.

          TÔI HIỀN: Nghĩa của chữ hiền thần, bầy tôi hiền đức, dám sống chết với vua với nước. Như Tiết Nhơn Quí đời Đường, Phạm Lãi đời Việt Vương Câu Tiễn…Đức Thầy có câu:

“Hiền thần sách sử nêu ghi,

Miễu son tạc để tu mi trung thần”.

          THIÊN LÝ VỊ NHIÊN: Lẽ tự nhiên của trời đất là như vậy.

          CÒN ĐÃI: Còn chờ đợi.

          THIÊN OAI NẤY LỊNH: Thiên oai: Uy linh của Thượng đế. Nghĩa bóng: Uy quyền của nhà vua. Đức Thầy có câu: “Vi lộ thiên oai bảo giác dân”.

          Nấy lịnh: Xuống lịnh. Chờ đợi oai trời xuống lịnh.

 

LƯỢC GIẢI

(Từ câu 197 đến câu 204)

          Ngày Phật Tiên phân định cho cuộc đời tân sắp đến là ngày do cơ tạo hóa sắp đặt, ví như bàn cờ mới sắp nước mới. Nước cờ mới hiện nay đang khởi sắp. Tức là cuộc đời Thượng nguơn Thánh đức đang vén màn. Các bậc Phật, Tiên, Thần, Thánh dùng thần thông dời non lấp biển cảnh trí thiên nhiên đều theo định luật của hóa công mà xoay chuyển thời thế. Chừng đó dưới cùng trên đồng tiết ra màu trời ảm đạm do không khí vận hành, và pháp thuật của Tiên Phật hóa hiện. Và qua giờ phút thê lương đó, cả thế giới bắt đầu mưa hòa gió thuận. Số người sống sót đồng một lòng, một ý chí như nhau: Phò trợ Thánh Vương và tu hành tinh tấn đến ngày công viên quả mãn.

          Bực Thánh Vương lo kiến thiết cơ đồ và đặt nền móng vững chắc tại triều ca, gây dựng bầy tôi hiền đức để củng cố đất nước thành một đất Thánh.

          Vả lại hiện giờ còn chờ oai lực của Trời đất phân định đúng ngày giờ năm tháng mới thi hành mạng lịnh của máy thiên cơ. Vậy chúng dân nên ẩn nhẫn đợi thời.

 

CHÁNH VĂN

·  205.-Tỏ tình đời ít câu cung thỉnh,

·  Mong khán-quan vào cửa xem tuồng.

·  Cỏ cùng cây điểu-thú chim-muông,

·  208.-Nhơn với vật huờn lai bổn-tánh.

·  Đó mới biết ai là Phật Thánh,

·  Ai thảo-hiền ai lỗi đạo nhà.

·  Đồng hát câu phụ-tử khải-ca,

·    212.-Chúc trăm họ muôn nhà thạnh-thới.

 

CHÚ THÍCH

          CUNG THỈNH: Mời một cách kính cẩn.

          KHÁN QUAN: Xem coi.

          XEM TUỒNG: Xem coi tuồng tích. Nghĩa bóng: Xem ngày lập hội giống như tuồng hát. Nhưng nó thật tế và cụ thể hơn.

          ĐIỂU THÚ: Chim và loài thú vật. Đức Thầy có câu: “Nào phải giống chim muông điểu thú”.

          CHIM MUÔNG: Chim và chó săn. Nghĩa bóng: Kẻ dữ. Những tay sai hung dữ của kẻ ỷ quyền thế hại người.

          HUỜN LAI BỔN TÁNH: Trở về tánh bản lai, tức tánh nguyên thỉ của mình thuở trước. Theo kinh điển cho biết: Mỗi người đều có tánh bản lai, nó vốn thanh tịnh hằng hữu. Nhưng bản tánh nầy chưa có thời gian gạn lọc nên bị vô minh che mờ. Nếu nay chúng ta phá được mây, huệ nhựt sẽ hiện bày tức khắc. Cái bản lai thanh tịnh đắc ngày nay thật nó không khác cái bản lai của ta trước kia. Nhưng cái chưa lọc và cái đã lọc rồi. Nó ví như chất nước chưa lọc và chất nước đã lọc, nó không khác. Có khác chăng là tại lớp bùn sịn còn chất chứa trong nước trong mà thôi.

          THẢO HIỀN: Hiếu thảo và hiền lành.

          LỖI ĐẠO NHÀ: Lỗi đạo ông bà cha mẹ của mình. Nghĩa bóng: Chỉ những kẻ ninh hót a dua theo giặc Pháp, bỏ hết luân thường đạo nghĩa nước nhà.

          PHỤ TỬ: Đạo cha con.

          KHẢI CA: Bài hát thắng trận. Ca khúc khải hoàn.

          TRĂM HỌ: Nghĩa của chữ bá tánh. Ý chỉ tất cả mọi người.

          MUÔN NHÀ: Mười ngàn nhà. Nghĩa bóng: Chỉ chung những người đang sống.

          THẠNH THỚI: Thới lai thịnh vượng, thời buổi hưng thịnh. Cái thế đang hưng, đang mạnh, làm ăn phát đạt dễ dàng.

LƯỢC GIẢI

(Từ câu 205 đến câu 212)

          Để kết thúc bài “Nang Thơ Cẩm Tú”, Đức Tôn Sư PGHH vì quá thương đời, nên cạn lời bày tỏ vào đây, cung thỉnh mọi người, mọi giới xem đi xét lại tận tường để vào cửa xem tuồng; đó là cuộc diện thế giới bùng nổ ở trời Nam vào thời cuối Hạ sang Thượng nguơn sắp tới.

          Đạo Phật cao siêu ở chỗ bình đẳng về thể tánh; Đức Phật xem tất cả: Cỏ cây, loài người, vạn vật đều có Phật tánh như nhau. Sau khi lập lại đời tân bản tánh ra sao phải đầu thai vào cảnh giới đó. Ai được nên Tiên, nên Phật thì tốt. Những ai phải đầu thai thú cầm sanh vật cỏ cây là tùy theo nghiệp lực của mình gieo tạo từ trước, Phật Trời rất công minh không vị tình và cũng không hành phạt một ai. Tại mình tròn đạo hiếu, hay lỗi đạo nhà, chớ oán trách ai.

          Đức Tôn Sư PGHH cầu chúc mọi người, gia đạo bình an, đồng hát khúc khải ca, tu hành tinh tấn, làm ăn phát đạt và hưởng mùa Xuân an lạc.

 

CHÁNH VĂN

·                    NGÂM

·  Bồ-đào rượu thánh trà tiên,

·  Muôn năm cọng lạc chúa hiền tôi trung.

·                 

·             Nhơn-Nghĩa, ngày 29-5 Canh-Thìn.

 

CHÚ THÍCH

          BỒ ĐÀO: Cây nho, rượu nho. Tương truyền: Các vị tu Tiên thường nấu rượu Bồ Đào để đãi khách quí. Rượu Bồ đào có đặc tánh: Uống vào không say, uống nhiều càng bổ. Không phải như rượu nếp ở thế gian làm. Nói đến Bồ Đào là nói đến cảnh Tiên.

          RƯỢU THÁNH TRÀ TIÊN: Rượu trà của các bậc Thánh Tiên dùng. Thường Tiên ông hay tụ hợp nhau đánh cờ, ngâm nga thi phú, tiêu khiển bằng rượu trà. Ngụ ý: Con người thoát tục, không mến công danh phú quí. Rượu Thánh Trà Tiên còn có nghĩa chỉ tình nghĩa đậm đà gắn bó, không phân quen biết gần xa. Tâm bình đẳng.

          CHÚA HIỀN TÔI TRUNG: Chúa hiền: Chúa nhơn đức, biết chiêu hiền đãi sĩ, trọng vọng người có công, tận tâm giúp kẻ nguy nàn. Tôi trung: Bầy tôi một dạ với vua, với nước, hết lòng phò tá, chẳng nại gian nan nguy hiểm. Tục ngữ có câu: “Trung thần bất sự nhị quân” (người tôi trung không phò hai chúa).

          Chúa hiền Tôi trung tức Chúa Thánh, tôi hiền hết lòng bảo vệ và che chở lẫn nhau.

 

LƯỢC GIẢI

(Từ câu 212 đến câu 214)

          Đến hai câu chót, Đức Tôn Sư PGHH diễn tả cảnh thanh nhàn của đời Thượng Nguơn Thánh Đức. Thầy tớ, chúa tôi họp nhau đàm luận đạo mầu, ngâm nga thi phú, uống rượu Bồ Đào, Trà Tiên Rượu Thánh.

          Thật là cảnh thái bình an lạc chưa từng thấy ở cõi thế gian. Muôn năm mới toại hưởng một lần, và muôn năm công lạc chúa hiền tôi trung. So sánh khác nào bồng lai Tiên cảnh.

          Vậy ai là kẻ thức thời, cố gắng lo tròn việc Đạo để cùng vui hưởng cảnh trường xuân tươi đẹp./.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn