Bài thứ ba mươi mốt
THỜI LAI DIỆN MỤC
Hồng nhạn ô qui thán giả hồ,
Thi thần đởm khí ngộ hà mô.
Điện phong vạn hộ vô thiên ảnh,
Tổn khí thao tồi vọng nhứt vô.
Lược dịch:
Vạn vật trong đời chẳng thật sao
Tinh thần khí chất ở nơi nào
Trời quang mây tạnh nơi trần thế
Hao tổn tinh thần chuyện lảng xao.
Bài thứ ba mươi hai
THỜI LAI DIỆN MỤC (tt)
Nhứt vô tam kiến cái thiên hồng,
Tông tích kỳ sanh chuyển kiếp thông.
Khai cảnh nguyệt đài thông hạ giới,
Thời lai diện mục tác hài công.
Lược dịch:
Đất trời trùm khắp cả trần hồng
Dấu tích của người cảm núi sông
Khai đạo cho người thông nguyệt cảnh
Thời cơ đã đến sẽ thành công.
Bài thứ ba mươi ba
Ông NGUYỄN THANH TÂN xướng:
Tiết phong một võ nhứt thân khinh,
Háo đạo thơ sanh cảm khốc tình.
Cực vọng Nam minh dân tiếp thủy,
Tường khan Bắc chỉ thạch tranh vinh.
Mộng hồi cố quốc tam canh nguyệt,
Tỉnh khởi cô bang vạn lý trình.
Kim nhựt phùng chơn tu tận túy,
Hựu tương ly biệt não bình sanh.
Lược dịch:
Gió mưa vò võ chiếc thân khinh
Cũng bởi thư sanh thấm đạo tình
Ước vọng nam minh dân tiếp thủy
Trơ vơ Bắc phận đá trời in
Ba canh khắc khoải sầu non nước
Tỉnh giấc đường xa tủi phận mình
Gặp được Thầy nay đà phỉ chí
Rồi ra chia cách xiết bao tình.
Bài thứ ba mươi bốn
ĐỨC THẦY đáp họa
Hải qui thiết lượng ngốc nhơn khinh,
Cố viễn hà qua kiến hữu tình.
Quí hóa ai thi hà quốc thủy,
Đài phi sơn lãnh vị thành vinh.
Phù vân lộ thức nhiên âm nguyệt,
Tố giả vong bang kỷ tráng trình.
Phúc họa trù phong nhiên Bính tý,
Trùng lai hữu nhựt tại hoài sanh.
Mỹ Hội Đông, ngày 22-1-Canh Thìn (1940)
Lược dịch:
Tâm hồn cao thượng bị người khinh
Gặp gỡ đổi trao thấm nghĩa tình
Thi cảm vì thương hồn quốc thủy
Đài cao soi thấu đá trời in
Mây tan trời tạnh thì trăng hiện
Nước mất ai người dám bỏ mình
Bính Tý là năm tường phúc họa
Hẹn ngày tao ngộ...(bị lem không rõ)
Bài thứ ba mươi lăm
Ông NGUYỄN KỲ TRÂN tức CHÍN DIỆM
(ở làng Định Yên, tỉnh Long Xuyên) xướng :
Cường khấu xâm lăng kỷ thập niên,
Vị tri đại đức giáng hà tiên ?
Hi Di ngũ quí kim an tại,
Thái Thượng tam vương cổ bất truyền.
Độc nhãn Sa Đà tàng bắc địa,
Liên mi chơn mạng ẩn nam thiên.
Phòng ngư xích vĩ đương kim nhựt,
Dẫn lãnh minh lương trứ tổ tiên.
Lược dịch:
Giặc Pháp xâm lăng mấy chục niên
Chưa tường tông tích hiệu danh Tiên
Trần Đoàn ngũ quí còn tồn tại
Thái Thượng tam vương đã bặt truyền
Độc Nhãn đợi chờ nơi Bắc địa
Liên mi vương mạng ẩn nam Thiên
Lá cờ Tam sắc đang tồn tại
Xin lấy roi Thần đả tặc phiên.
Bài thứ ba mươi sáu
ĐỨC THẦY đáp họa :
Thiên ký Lạc Hồng đắc ngũ niên,
Sơn Trung hồi giả bí danh Tiên.
Trần nhơn đãi thế Nam tồn tại,
Lão đạo tiền phong Bắc ý truyền.
Trình mỗ ngộ kim khuê cổ địa,
Xích Mi hải hội luật trừng thiên.
Vị phi minh đế đồ tôn nhựt,
Thạnh khí đào thinh giác kỷ tiên.
Lược dịch:
Trời định Lạc Hồng chịu ngũ niên
Sơn Trung trở lại chửa danh Tiên
Họ Trần Nam Việt còn tồn tại
Lão đạo Bắc phương khởi thỉ truyền
Ta vốn Trạng Trình nơi Cổ địa
Xưa kia Lão Tổ luật trừng Thiên (1)
Hiện nay chưa phải thời minh đế
Đắc thế nhiều roi đuổi giặc phiên.
----------------------
(1) Gọi cho đủ là Xích Mi Lão Tổ.
Bài thứ ba mươi bảy
Ông NGUYỄN KỲ TRÂN tức CHÍN DIỆM
(làng Định Yên, tỉnh Long Xuyên) xướng:
Tổ tiên cứu loạn hựu phò nguy,
Hướng thiện khử tà chúng bất tri.
Vô tránh vô tranh thiên hạ thiểu,
Toàn trung toàn hiếu thế gian hy.
Ái mao vị tiện ngô đồng phụng,
Tiết giác thâm tang trạch thủy qui.
Bất tậm tam tâm danh lợi khách,
Đáo đầu thâm mãnh niệm từ bi.
Lược dịch:
Tổ tiên cứu loạn lúc lâm nguy
Hướng thiện diệt tà dân khó tri
Không cản không tranh thiên hạ ít
Vẹn toàn trung hiếu thế gian hy
Phượng Hoàng chỉ đậu ngô đồng thụ
Rùa tổ trầm mình tận biển tây
Chưa đạt ba tâm còn chủ khách
Cuối cùng cũng phải niệm từ bi.
Bài thứ ba mươi tám
ĐỨC THẦY đáp họa:
Kỷ tiên hữu nhựt ngã đình nguy,
Lượng trí bồi thành thử tất tri.
Võ kỷ hung phong nhơn mạt thiểu,
Thần Tiên tiểu ẩn cổ lai hy.
Thí sanh tán địa liên đài phụng,
Vạn vật an ninh thông điện khách,
Nhứt trường Lê thứ kiến vô bi.
Lược dịch:
Roi Thần sử dụng lúc lâm nguy
Lấy trí bồi thành kẻ hữu tri
Gió lớn mưa to danh cái thế
Thần Tiên còn ẩn thế gian hy
Thí sinh muốn được hoàn danh phận
Kẻ sĩ dọn mình phục cát qui
Chế ngự vọng tâm thông vạn vật
Có ngày dân chúng hết sầu bi.
Bài thứ ba mươi chín
VIẾNG LÀNG PHÚ AN CHÂU ĐỐC (tt)
Cầu ngã kiến văn tối thậm đa,
Thiện duyên tác phước ý như hà.
Phô trương vạn lượng tam hài tuế,
Hội Thính na thời kiến thạnh hoa.
Lược dịch:
Nay gặp chơn sư mở đạo lành
Phải chăng hữu phước tạo duyên sanh
Tài ba đâu phải luôn tồn tại
Hội Thánh nay mai kiến thái bình.
Bài thứ Bốn mươi
VIẾNG LÀNG PHÚ AN CHÂU ĐỐC (tt)
Viễn lự ô hô chí Lão Bành,
Nhơn thì sanh dưỡng khí tồn thanh.
Hải qui thế giới nam hòa vọng,
Nguyện dữ như hà dụng thức canh.
Lược dịch:
Tuổi thọ sao hơn được Lão Bành
Giữ gìn khí tiết để nên danh
Nam nhi chí cả trong hoàn vũ
Thao thức mong sao sở nguyện hành.
Bài thứ Bốn mươi mốt
VIẾNG LÀNG PHÚ AN CHÂU ĐỐC (tt)
Kim phụng triều vương viễn khứ đình,
Bài hồi phong nhã lạc trầm thinh.
Duyên do phước thọ lai duy hiển,
Thủ đảnh thư hùng thục sử kinh.
Lược dịch:
Tiếng tăm triều nội lạc âu ca
Thời đại vàng son đã trải qua
Có được duyên lành do phước đức
Anh hùng lịch sử nước nhà ta.
Bài thứ Bốn mươi hai
VIẾNG LÀNG PHÚ AN CHÂU ĐỐC (tt)
Quang minh diện mục khả hồ sơ,
Nhứt diệu phù vân phú quới cơ.
Quân tử Thánh nhân hà đại lượng,
Liên hồng vạn thử cảnh thiên thư.
Lược dịch:
Gương sáng công thần ủng hộ dân
Giàu sang như thế đám phù vân
Thánh nhân quân tử sao tồn tại ?
Lạc cảnh thai sen nhập thức thần.
Bài thứ Bốn mươi ba
TỎ CÂU HUYỀN BÍ (tt)
Thiên sanh thiện tánh tác thì gia,
Tông tích cổ kim lượng thử hà.
Sư giả hạ trần nhơn mạt kiếp
Ngã hồi dương thế thuyết huyền ca.
Lược dịch:
Đản sanh Thầy vốn đã tâm lành
Thích đạo kế truyền sẵn hiệu danh
Xuống thế Thầy lo đời mạt pháp
Độ dân dắt chúng chuyện huyền linh.
Bài thứ Bốn mươi bốn
TỎ CÂU HUYỀN BÍ (tt)
Đài phong liễu khước tạo
Thiện chí Hồ thiên thức Ngọc Tòa.
Trung Sơn tế giáng Lư Bồng kiểng,
Giác tỉnh sanh kỳ tối diệu đa.
Lược dịch:
Nhà Nam lập quốc kể từ nay
Ấy lịnh Thầy vưng sắc Ngọc đài
Thừa kế Bửu Sơn khai lập hội
Hiển linh ứng nghiệm ở tương lai.
Bài thứ Bốn mươi lăm
TỎ CÂU HUYỀN BÍ (tt)
Bửu ngọc mai danh ẩn nhục tràng,
Sơn đài hồ hải luyện tứ phang.
Kỳ sanh tạo giả thi truyền tục,
Hương giải thao tồi thị Bảo giang.
Lược dịch:
BỬU danh ẩn tích đợi thời cơ
SƠN lãnh khí thiêng khắp cõi bờ
KỲ lạ Phật Thầy truyền hậu thế
HƯƠNG thơm sông bảo mấy ai ngờ.
Bài thứ Bốn mươi sáu
TỎ CÂU HUYỀN BÍ (tt)
Ngũ hồ ly cấu tạn hài Tiên,
Nguyền thuyết thanh danh tác thiện duyên.
Thậm thâm tối thiểu kim tàng cốc,
Đa giả khứ hồi giải nghiệp duyên.
Lược dịch:
Ngũ hồ mong mỏi gặp Thần Tiên
Nay được Thầy ra mở đạo Thiềng
Số phận sư đồ sâu thẩm kín
Cội lành hiệp mặt phúc nhơn duyên.
Bài thứ Bốn mươi bảy
TỎ CÂU HUYỀN BÍ (tt)
Canh tràng dạ đoản, đoản canh sơ,
Ngã thứ trung sanh trực thế chờ.
Ngỡi khí yêng hùng ghi đởm lược,
Hà giang lương thố vẻ Thiên cơ.
Lược dịch:
Canh dài, đêm ngắn, ngắn canh trường
Dân thứ cùng Thầy lắm nỗi vương
Nghĩa khí anh hùng trung lẫn hiếu
Sông nào đượm vẻ ý Thiên lương.
Bài thứ Bốn mươi tám
TỎ CÂU HUYỀN BÍ (tt)
Khởi điệu tầm vương Phật cổ hồi,
Vạn năng sĩ tử hiệp hòa ngôi.
Tam thanh truyện tích ghi biên tự,
Khán giả tận tường liệt võng khôi
Lược dịch:
Phật vương mở hội chuyển khai đời
Chọn lựa người hiền để định ngôi
Tích trước Thánh nhân còn chép để
Luật trời đâu dễ lọt riêng ai.
Bài thứ Bốn mươi chín
TỎ CÂU HUYỀN BÍ (tt)
Canh niên viễn lự tối thi thần,
Kê thủ nhứt tràng vạn địch nhân.
Nam thức quân thần cuồng Lão sĩ,
Châu nhi phục thỉ cổ đồng lân.
Lược dịch:
Năm dài lo nghĩ viết thi thần
Lắm kẻ anh hùng cũng phục vâng
Sẽ hiểu con người cuồng lão sĩ
Hoàn lai Thượng cổ rõ đời tân.
Bài thứ Năm mươi
TỎ CÂU HUYỀN BÍ (tt)
Bửu kiến trừng tâm dụng thể Tiên,
Sơn sanh giả kế chưởng quyền Thiên.
Kỳ thâm hạ giái ly đài nguyệt,
Hương vị trầm thinh bí kỷ niên.
Lược dịch:
Kiếm báu trừng tâm việc trước tiên
Sơn ra trợ thế dụng kinh quyền
Kỳ thông Hạ giái lìa ngôi vị
Hương tuyệt thâm trầm mấy chục niên.
Bài thứ Năm mươi mốt
DIỆT TIỀN KHIÊN
Bồng Lai như khứ khổ nan truyền,
Cảm tác quyền hồ tố thiện duyên.
Quốc thủy đài chương trung liệt cổ,
Trần gian ngã đáo diệt tiền khiên.
Lược dịch:
Đến được Bồng Lai hết khổ nàn
Duyên lành quyền biến độ trần gian
Ân nhà nợ nước bao người vẹn
Xuống thế cứu đời giải nghiệp oan.
Bài thứ Năm mươi hai
DIỆT TIỀN KHIÊN (tt)
Vạn lý trường đồ mộ nhứt sơn,
Danh Tiên liễu bá định hồi yên.
Vị phi lai tục đa ưu lự,
Sơn hải điền viên tất tảo nan.
Lược dịch:
Đến được Thượng Nguơn đường thật dài
Danh Tiên ngôi vị có xưa nay
Vì chưng xuống thế nhiều lo nghĩ
Sông núi ruộng vườn cũng đổi thay.
Bài thứ Năm mươi ba
ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tt)
Nam thiền vô ngại đại Hoành sơn,
Nhiên khước hành vi kỷ khách hườn.
Tân tạo huyền sanh hồi châu ngọc,
Hữu nhựt Tiên Thần hiệp luyện đơn.
Lược dịch:
Đạo không cản bước thể hoành sơn
Chẳng phải hành vi của khách huờn
Tân tạo Thượng Nguơn đời quí báu
Có ngày Tiên Phật tỏ nguồn cơn.
Bài thứ Năm mươi bốn
ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tt)
Vân vân bạch bạch thức sinh thần,
Cổ quán thôn hương nhứt dị nhân.
Tiên sinh hiện kiếp phò Lê chúa,
Hậu truyền độ chúng cảm hoài ân.
Lược dịch:
Mây trắng tinh thần vượng khí thiêng
Cổ Am quê quán dị thường nhân
Trước phò Lê chúa an bờ cõi
Sau độ dân lành cảm đức ân.
Bài thứ Năm mươi lăm
ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tt)
Liên hồng cảm kích vĩ long tuyền,
Đồng Thạnh hàng kỳ tác thiện duyên.
Kiển sám truyền danh lưu hậu thế,
Lược dịch:
Nồng nàn sen báu cảnh long tuyền
Đồng Thạnh thương đời tạo thiện duyên
Kinh giảng đề danh lưu hậu thế
Nhà Nam trung liệt đứng đầu tiên.
Bài thứ Năm mươi sáu
ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tt)
Nhơn danh ly biệt ngạn Bắc hà,
Cổ súy lương thần vịnh phong ca.
Thọ tử tâm trung trưng hùng khí,
Qui hồi quốc thủy tiện phương hoa.
Bài thứ Năm mươi bảy
ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tt)
Cổ qui tài tận hận do Tần,
Thiện chí tu trì lập vĩ thân.
Tồn tại hư vô tầm Bát Nhã,
Tiên kiếm thần thông chỉ huy cần.
Lược dịch:
Ôm hận tài tan bởi thói Tần
Cố công tu để lập bồi thân
Trau giồi trí huệ năng tồn tại
Để đạt thần thông ấy việc cần.
Bài thứ Năm mươi tám
ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tt)
Điền tan gia phế tế nhiên hàn,
Khổ đáo ly kỳ ảo viễn cang.
Nghị xuất Thần Tiên yên truyền đạo,
Bần phú cơ đồ bất tự sang.
Lược dịch:
Nhà hoang ruộng mất chịu cơ hàn
Cảnh khổ chưa từng thấy diễn lan
Xuất thế Thần Tiên truyền đạo lý
Nghèo giàu trời định chốn nhân gian.
Bài thứ Năm mươi chín
ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tt)
Nôn nãi kìa ai nhọc mưu cầu,
Thê thảm cho đời nẻo huyền sâu.
Kiên cố của tiền thiên đạo lý,
Cấp hồi ái truất trót canh thâu.
Lược dịch:
Nóng lòng nhưng việc có thành đâu
Thê thảm cho ai lẽ nhiệm mầu
Chất chứa của tiền phai đạo đức
Yêu đời thức suốt cả canh thâu.
Bài thứ Sáu mươi
ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC (tt)
Thiên ý bất tư hoạnh trữ tài
Biên hình liên huệ tất ư giai.
Kiệm kỷ tha lam mi hài chí,
Long trì phi ẩn tạo kiền khai.
Lược dịch:
Trời đâu dành của để riêng ai
Ái quốc trung quân liên huệ khai
Của mình thì giữ, người muốn đạt
Thầy còn ẩn dạng đợi thời lai.