Phật Giáo Hòa Hảo là một tôn giáo, lại là tôn giáo chống cộng tích cực. Đã từng là đối tượng đàn áp của Cộng Sản từ 1945, đã phải chịu hai lần sát hại 1945 và 1947, thiệt hại mấy chục ngàn sanh mạng, bây giờ Phật Giáo Hòa Hảo lại phải chịu đựng thêm một đại nạn nữa.
Với kinh nghiệm quá khứ, nên Phật Giáo Hòa Hảo đã cảnh giác trước sự suy sụp của tình thế từ sau khi ký kết Hiệp định Ba Lê. Tổ chức Bảo An Phật Giáo Hòa Hảo ra đời cũng là một phản ứng tự vệ trong tình trạng đó. Họ phải tìm cách tự cứu bằng cách quy tụ một số thanh niên, tìm võ khí trang bị thành các đơn vị chiến đấu mong rằng có lực lượng ứng phó với các biến cố sắp xảy ra trong sự đương đầu với các đơn vị võ trang của Cộng Sản. Nhưng tổ chức này đã bị đánh phá bởi chính quyền Đệ nhị Cộng Hòa. Tổng Thống đã hạ lịnh tước võ khí giải tán Bảo An Phật Giáo Hòa Hảo, và lừa bắt các nhân vật chỉ huy trong một phiên họp.
Sau đây là một số tài liệu liên quan đến vụ này:
TÀI LIỆU 1
Trích bài thuyết trình của giáo sư Nguyễn Ngọc Huy trong cuộc hội thảo về đề tài “VIỆT NAM EXPERIENCES 1945-1975” tại đại Học Glassboro New Jersey, ngày 7 và 8-4-1986, tiêu đề: “The Final Struggle and The Fall of South Viet Nam”.
‘’...Việc bổ nhậm Tướng Nguyễn Khoa Nam thay Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi làm Tư lịnh vùng IV lại gây ra một vấn đề rắc rối khác cho ông Thiệu.
Tướng Nguyễn Khoa Nam là một tướng sạch và có khả năng. Ông nhận thấy tình hình vùng IV đã suy sụp nhiều khi đặt dưới quyền điều khiển của tướng Nguyễn Vĩnh Nghi. Bởi thế ông đã tiếp xúc với đoàn thể quan trọng nhứt của giáo phái Hòa Hảo và đề nghị đoàn thể này thành lập những đơn vị quân sự gia nhập Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa để bảo vệ vùng châu thổ sông Cửu Long. Người Hòa Hảo lúc nào cũng có tinh thần chống Cộng, và đã chứng tỏ rằng họ là những chiến sĩ gan dạ. Nhưng họ không chấp nhận động viên với tư cách cá nhân. Theo họ, binh sĩ động viên phần đông yếu tinh thần chiến đấu, hay bỏ chạy khi đụng độ mạnh với Cộng Sản. Bởi thế, trong quá khứ người Hòa Hảo luôn luôn tuyên bố rằng họ sẵn sàng phục vụ trong quân đội quốc gia, nhưng với điều kiện là được ghép chung thành đơn vị ít nhứt là cấp đại đội, chánh phủ Sàigòn đã luôn luôn bác bỏ điều kiện đó, nên người Hòa Hảo chỉ hợp tác với chánh phủ bằng cách thành lập các đơn vị Dân vệ với những người có đủ điều kiện pháp lý để thi hành nhiệm vụ này. Về phần những người có thể bị động viên vào quân đội, họ đã từ khước lịnh trưng binh và ẩn núp trong các làng xã của họ.
Đề nghị của Tướng Nam phù hợp với nguyện vọng người Hòa Hảo, nên hai bên đã thỏa thuận được với nhau một cách nhanh chóng. Chánh phủ đã chấp nhận thỏa ước này và ra lệnh thảo một qui chế cho các đơn vị Hòa Hảo.
Trong khi đó thì mùa gặt đến. Thường thì đó là thời kỳ mà chánh phủ bỏ lơ việc tìm bắt những người trốn lính để cho việc gặt hái không bị cản trở. Mỗi năm cứ đến mùa gặt, Bộ Nội vụ lại gởi cho các chánh quyền địa phương một công điện ra lệnh không được ngăn trở việc đi lại của công nhân lo việc gặt hái. Đó là tiếng lóng để bảo các cảnh sát viên không được bắt những người trốn lính từ các làng xã đi ra và đến các vùng có lúa cần gặt. Nhưng nếu muốn không bị cảnh sát bắt, những người thợ gặt lại phải nạp cho cảnh sát một phần tiền công họ thâu hoạch được.
Trong mùa gặt 1974, cảnh sát viên biết rằng những người Hòa Hảo trốn lính rồi sẽ nhập ngũ vào quân đội (theo công thức Nguyễn Khoa Nam), nên đó là lần chót mà họ có thể thâu tiền của những người ấy, và đòi hỏi một sự đóng góp cao hơn so với những năm trước. Trong khi đó, người Hòa Hảo lại nghĩ rằng rồi đây họ sẽ là binh sĩ và không còn sợ cảnh sát viên nữa nên từ chối mọi “đóng góp”. Cảnh sát viên nổi giận nên bắt những người có vẻ cứng rắn nhứt trong số người Hòa Hảo đi gặt hái, mà họ cho là những người cầm đầu, rồi đem nhốt những người này trong bót. Người Hòa Hảo căm tức đã liên lạc với các dân vệ đồng đạo và dùng võ lực để giải thoát những người bị bắt giam. Lúc ấy, Đại tá Nhan Văn Thiệt, Tư lệnh Cảnh sát vùng IV báo cáo với ông Thiệu là người Hòa Hảo nổi loạn chống chánh phủ. Ông Thiệu bèn ra lệnh giải giới 50.000 dân vệ Hòa Hảo ở vùng châu thổ sông Cửu Long. Thỏa ước giữa Tướng Nam với người Hòa Hảo dĩ nhiên là bị hủy bỏ. Vậy thay vì tăng cường được lực lượng với các đơn vị quân sĩ Hòa Hảo, chánh phủ Sài Gòn lại có thêm một đoàn thể đối lập mạnh mẽ. (*)
TÀI LIỆU 2
“Ông William Cassidy, một người Hoa Kỳ làm việc lâu năm tại Việt Nam, cưới vợ Việt Nam người gốc Miền Tây, nên hiểu biết một số tin tức liên hệ đến vấn đề giải tán Tổng Đoàn Bảo An Phật Giáo Hòa Hảo năm 1975. Sau đây là bức thơ ông viết cho tập san Đuốc Từ Bi (tập san Phật Giáo Hòa Hảo xuất bản tại California, Hoa Kỳ):
Độc giả Đuốc Từ Bi hẳn đã biết rõ về hậu quả tai hại của quyết định giải giới tổ chức Bảo An Phật Giáo Hòa Hảo năm 1975. Phải nói rằng quyết định đó đã tạo cho Mặt trận Giải phóng Miền Nam một thắng lợi mà họ không tìm kiếm, ngay trong thời kỳ nghiêm trọng vô cùng của lịch sử Miền Nam Việt Nam. Quyết định đó là một trong những nguyên nhân làm cho vùng IV chiến thuật thất thủ, và cũng làm cho phong trào kháng chiến Phật Giáo Hòa Hảo sau 1975 gặp phải rất nhiều khó khăn lớn lao.
Trong 12 năm qua, đã nhiều lần tôi được hỏi ý kiến về vụ này. Dường như nhiều người nghĩ rằng chính Tướng Nguyễn Khắc Bình (chỉ huy Trung ương Tình báo Việt Nam) đã hạ lệnh giải tán Bảo An, theo khuyến cáo của cơ quan tình báo Hoa Kỳ CIA. Tôi khẳng định đó là ý nghĩ sai lầm. Và điều đó, bây giờ đã rõ ràng.
Quyết định giải tán Bảo An Phật Giáo Hòa Hảo của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ban hành đã bất chấp khuyến cáo của CIA. Cho nên dù lệnh đó đã ban hành rồi, phía Hoa Kỳ vẫn chống đối. Sự việc này đã tạo tình trạng bất hòa giữa một số viên chức Hoa Kỳ và giới Cảnh sát Quốc gia tại vùng IV.
Một số sử gia Việt Nam tin rằng việc giải giới Bảo An là hệ quả của cuộc thương lượng thất bại giữa ông Lương Trọng Tường và Nguyễn Văn Hảo và từ ý nghĩ này cho rằng phía Chánh phủ có thương lượng với Hảo ý. Nhưng sự thật không phải thế, Chánh phủ không có Hảo ý thương lượng. Hai ông Lương Trọng Tường và Nguyễn Văn Hảo họp trong tuần lễ khoảng 20-1-1975, và hai bên đồng ý sẽ kết thúc vào ngày 6-2-1975. Trái lại, lệnh giải tán và tước khí giới Bảo An đã do ông Tổng trưởng Nội vụ ban hành từ ngày 12-12-1974, để cho Cảnh sát Quốc gia vùng IV thi hành.
Huấn lịnh của Tổng trưởng Nội vụ chỉ thị Đại tá Nhan Văn Thiệt bắt giam các nhân vật Trần Hữu Bẩy, Lê Trung Tuấn và bảy người hộ vệ, vào ngày 29-1-1975. Hôm đó, Trần Hữu Bẩy (tức Hai Tập, Tổng đoàn trưởng Bảo An) cùng với Lê Trung Tuấn, Trương Minh Ký được mời đến họp với Cảnh sát ở tư gia của Dân biểu Dương Minh Quang tại Long Xuyên. Ngay khi vừa tới, họ nhận được lịnh của Cảnh sát phải giải tán Bảo An và giao nạp toàn bộ võ khí. Họ phản đối, viện lý do rằng lúc đó quân đội Cộng Sản đang tấn tới, cần phải chuẩn bị ứng phó, và họ yêu cầu hãy chờ đến ngày 6-2-1975 là ngày hẹn họp lại của hai ông Tường và Hảo. Nhưng Đại tá Nhan Văn Thiệt hạ lịnh bắt giam lập tức tất cả những người này, ngoại trừ Dân biễu Dương Minh Quang và Trương Minh Ký. (*)
Sau đó, Cảnh sát còn bắt bớ các chỉ huy trưởng và Chỉ huy phó Bảo An tại tỉnh An Giang, quận Huệ Đức, Hòa Bình Thạnh, quận Châu thành, quận Thốt Nốt. Nhiều vị Chỉ huy Bảo An Xã trong quận Chợ Mới và Châu Thành cũng bị bắt. Trong việc này, Cảnh sát Quốc gia đã cung cấp cho đơn vị cố vấn Hoa Kỳ vùng 4 những tin tức giả tạo và sai lạc. Các báo cáo sơ khởi cho biết rằng có 600 Bảo An bị bắt, 184 võ khí bị tịch thâu.
Cố vấn Hoa Kỳ lập tức phản đối và yêu cầu Tổng Thống Thiệu giải thích về hành động này. Ông trả lời rằng đã giao cho Nguyễn Văn Hảo thương lượng, và ông sẵn sàng chấp nhận một văn kiện “cam kết lấy lệ” trong đó phía Bảo An tự động giải tán cho có chừng, nhưng trong thực tế, cứ tiếp tục làm như cũ.
Nhưng khi các cố vấn Hoa Kỳ không tin luận điệu đó, thì phía Chánh phủ tiết lộ rằng “Tổng Thống Thiệu đã quyết định giải tán và giải giới Bảo An để phòng ngừa việc Phật Giáo Hòa Hảo có thể trực tiếp thương thuyết ngưng bắn với phía Cộng Sản” (*)
Tháng 2-1975, tình hình Miền Nam suy đồi mau chóng, dư luận không còn chú ý đến vấn đề Bảo An nữa. Ba tháng sau, Miền Nam thất thủ. Tuy nhiên, quyết định giải giới Bảo An ngay vào thời kỳ tình trạng Miền Nam suy đồi nghiêm trọng đã làm cho các giới quan sát Hoa Kỳ thắc mắc. Tháng 7-1976 John Haseman viết một bài nói về tiềm lực kháng chiến của Hòa Hảo, nhan đề “The Hoa Hao, A Half century of Conflict” đăng trên tờ Asian Affairs. Haseman cho biết rằng trước tháng 1-1975, tỉnh An Giang được xếp hạng là tỉnh an ninh số một của Miền Nam, và Châu Đốc đứng hạng nhì về An ninh tại Miền Tây. Haseman cho rằng Hòa Hảo vẫn tiếp tục chống đối Cộng Sản.
Những diễn tiến sau 4-1975 thì ai nấy đều đã biết rồi, tôi không cần nhắc lại. Tuy nhiên cần chú ý đến các nỗ lực tuyên truyền qua báo chí, truyền thanh của Hà Nội đã thú nhận rằng Hòa Hảo vẫn tiếp tục kháng chiến ở vùng châu thổ Cửu Long. Đầu 1979, ông Lương Trọng Tường được trả tự do về sống tại nhà đường Trần Quang Khải, Tân Định, nhưng bị theo dõi nghiêm nghặt. Hà Nội biết rằng rất khó mà bắt người Hòa Hảo thần phục, cho nên họ đã áp dụng các biện pháp đặc biệt (**)
Tuần báo Thời Luận xuất bản tại Los Angeles California đã đăng một loạt bài nhận xét về ‘’Hồi Ký của Thượng tướng Việt cộng Trần Văn Trà’’, trong đó có những đoạn nói về trường hợp đề kháng của Phật Giáo Hòa Hảo tại Tây An Cổ Tự và Thánh Địa Hòa Hảo. Trần Văn Trà Tư lịnh chiến dịch chiếm Miền Nam năm 1975, và đoàn quân của Trà tiến vào Sài Gòn đầu tiên. Trần Văn Trà sau đó giữ chức vụ Chủ tịch Ủy ban Quân quản Sài Gòn.
Trở lại với biến cố đau thương của dân tộc 30-4-1975, trong khi tại nhiều địa phương cũng như một số đơn vị của quân đội Việt Nam Cộng Hòa tuân lệnh viên bại tướng Dương Văn Minh buông súng và tự động rã ngũ, thì tại Miền Tây Nam Việt, trong vùng ảnh hưởng Phật Giáo Hòa Hảo, các đơn vị quân đội cũng như lực lượng của giáo phái này vẫn tiếp tục chiến đấu ngăn chặn bước tiến của Cộng Sản, kéo dài cho đến ngày 6-5-1975. Căn cứ địa đề kháng cuối cùng rơi vào tay Cộng Sản là Tây An Cổ Tự.
Tây An Cổ Tự là ngôi chùa cổ, nơi xuất phát nền đạo Bửu Sơn Kỳ Hương tức Phật Giáo Hòa Hảo sau này tại làng Long Kiến, rạch Ông Chưởng, Long Xuyên.
Trong hồi ký của Trần Văn Trà, y đã phải dành tới gần mười trang để ghi lại cuộc chống cự quyết liệt của các chiến sĩ thuộc lực lượng giáo phái này:
— “Còn ở Tây An Cổ Tự. Chúng đã âm mưu từ trước nếu khi các nơi bị ta đánh chiếm, giải phóng thì chúng liền qui tụ về “Thánh địa” và về đây. Khi “Thánh địa” bị mất nữa thì chúng coi đây là nơi cố thủ cuối cùng. Ước lượng số quân ngụy dồn về đây có tới 14 ngàn tên võ trang đầy đủ. Ngoài ra không biết bao nhiêu là tàu chở vũ khí, trang bị, lương thực... đậu đầy dưới sông. Khu chùa quá hẹp không đủ đất, đủ nước để chứa nữa. Chúng vội vã tổ chức “tử thủ”.
Con số mà Trà ghi nhận là 14 ngàn người võ trang cũng đủ chứng minh khả năng qui tụ nhân sự của một tổ chức không phải là chính quyền, tự mình huy động tiềm lực của mình như Phật Giáo Hòa Hảo.
Trong khi đó tại Thánh Địa Hòa Hảo tình hình khẩn trương. Trà đã cho biết ngay trong ngày 1-5-1975, lực lượng Việt Nam Cộng Hòa tại các địa phương thuộc tỉnh Châu Đốc đã qui tụ về đây: có trên một vạn quân bố trí thành trận địa”. Phía cộng quân đương đầu thì lại quá yếu.
— “Bộ đội địa phương của tỉnh (Châu Đốc) tiểu đoàn 1 và tiểu đoàn 2 cùng bộ đội huyện tiến xuống “Thánh Địa” theo hai mũi: bờ đông sông Tiền và bờ đông sông Hậu. Khi tiểu đoàn 2 tiến đến gần Kinh Xáng, An Long định vượt sông Cù Lao Tây thì bị bắn ngăn chặn quyết liệt. Ta lại không đủ phương tiện sang sông.”
Người cầm đầu mặt trận Cù Lao Tây (gồm ba xã Tân Huề, Tân Quới, Tân Long) đối diện Thánh Địa Hòa Hảo, theo những vị lãnh đạo Phật Giáo Hòa Hảo hải ngoại cho biết là ông N.G.S vừa mới tới Hoa Kỳ. Theo ông S. thì trận đánh này, các du kích Cộng Sản chạy như vịt.
Nhưng rồi theo sự tường thuật trong hồi ký của Trần Văn Trà thì lực lượng nơi Thánh Địa đã phải buông súng vì Cộng Sản đã dùng thủ đoạn bá đạo là lùa dân đi trước làm bia đỡ đạn, và một mặt cử người gặp cụ Lương Trọng Tường để thuyết phục. Cuộc kháng cự ở Thánh Địa Hòa Hảo thực sự chấm dứt lúc 17 giờ ngày 2-5-1975 theo lời ghi của Trà.
Tính ra Cộng Sản đã phải mất thêm bốn ngày sau khi chiếm được Thánh Địa mới giải quyết được cứ điểm chót này. Tại sao lại phải mất tới bốn ngày? Có lẽ Cộng Sản đã e ngại trước sự đề kháng quyết liệt của lực lượng tử thủ nơi đây, quá hùng hậu theo như tài liệu của Trà tiết lộ. Hơn nữa, vào lúc đó, thực lực của Cộng quân tại Miền Tây quá yếu, chưa kịp và chưa đủ tập trung để giải quyết.
Sự đầu hàng đột ngột của Dương Văn Minh ngày 30-4-1975 và cái chết hào hùng của Tướng Nguyễn Khoa Nam cùng ngày cũng không kịp cho Giáo phái Hòa Hảo thời gian tối thiểu cần thiết để củng cố hàng ngũ lãnh đạo và tập trung khả năng quân sự để đương đầu lại Cộng Sản. Cần Thơ thì bỏ ngỏ ngay từ chiều 30-4-1975, Cộng Sản không có đủ người để tiếp thu, nói chi đến tấn công với bao vây, chiếm cứ.
Hiện tượng tan rã tại Tây An Cổ Tự có thể cũng tương tự như tại Đà Nẵng, Nha Trang, Phan Rang...trước đó không lâu. Thế nhưng , những chiến sĩ Hòa Hảo thuộc cứ điểm đề kháng cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa đã ở trong một hoàn cảnh tuyệt vọng và bất ngờ vì tất cả lãnh thổ của chúng ta đã rơi vào tay địch. Những người lãnh đạo Giáo phái Hòa Hảo lại đã rơi vào tay địch. Các chiến sĩ Hòa Hảo ở Tây An Cổ Tự thực sự đang ở tuyệt lộ nên việc buông súng của họ là điều bắt buộc phải xảy ra, khác hẳn với sự bỏ chạy hỗn loạn của những đơn vị tác chiến của Việt Nam Cộng Hòa tại Vùng 1 và Vùng 2, một sự bỏ chạy không có lý do để bào chữa, bởi lẽ lúc đó, sau lưng họ còn có cả một quân lực, một chính quyền hợp pháp, và hai quân khu 3 và 4 vẫn hoàn toàn sức lực (*)
Lực lượng Bảo An Phật Giáo Hòa Hảo bị đánh phá như thế, cho nên khi biến cố 30-4-1975 xảy ra, tiềm năng kháng chiến của Miền Tây bị suy giảm trầm trọng. Các bộ đội Cộng Sản, với những đơn vị nhỏ mà thôi, cũng lần lượt làm chủ được tình hình. Cứ điểm cuối cùng rơi vào tay Cộng Sản là Tây An Cổ Tự tại xã Long Kiến, tỉnh An Giang, cũng chính là cứ điểm của Tổng Đoàn Bảo An Phật Giáo Hòa Hảo.
Sau khi Dương Văn Minh nhơn danh Tổng Thống mới được trao quyền bởi Tổng Thống Trần Văn Hương, lên tiếng kêu gọi quân đội Việt Nam Cộng Hòa bỏ súng đầu hàng, tình thế khắp nơi rối loạn. Tại Miền Tây, phản ứng của giới quân đội khác nhau, có người bỏ quân ngũ mà trốn đi, có người tìm cách ra khơi tìm tàu di tản, một số nghĩ đến việc tiếp tục kháng chiến. Thành phần này tìm về quy tụ với tổ chức Bảo An Phật Giáo Hòa Hảo, để hợp tác kháng chiến, cho nên khu vực Tây An Cổ Tự trong những ngày cuối tháng 4-1975 rất đông sĩ quan, binh sĩ kéo về; võ khí chuyển vận về đây cũng khá nhiều. Tuy nhiên không thể nào chận đứng được một tình huống tan rã tinh thần đang xảy ra, khi mà chưa có một lực lượng làm nồng cốt dựng lại tình thế. Nếu lực lượng Bảo An Phật Giáo Hòa Hảo đã không bị chánh quyền Đệ nhị Cộng Hòa đánh phá, thì may ra lúc này có thể đóng vai trò nòng cốt đó để gây dựng lại một phong trào kháng chiến. Tuy nhiên đó cũng chỉ là một giả thuyết thiếu thực tế, bởi vì một đại sự như vậy thường đòi hỏi một kế hoạch chuẩn bị và thời gian cần thiết để thực hiện những điểm căn bản của kế hoạch chuẩn bị.
Nói cách khác, nếu như chánh quyền đã nhìn thấy rằng cần phải bảo vệ Miền Tây dù cho đã mất Sài gòn, thì phải thiết lập một kế hoạch thích nghi chuẩn bị từ trước mà những điều cần yếu phải làm là gây tạo dự trữ tiếp liệu, thiết lập bộ máy nhân sự điều hành, chuẩn bị tâm lý quần chúng địa phương, và sẵn kế hoạch, chiến thuật ứng phó quân sự để bảo vệ Miền Tây.
Những chuẩn bị này đã không hề được chánh quyền nghĩ tới, trái lại chánh quyền còn đánh phá tiềm lực đề kháng của quần chúng. Cho nên biến cố 30-4-1975 xảy ra, toàn thể bộ máy chánh quyền quân sự dân sự tan rã mau chóng, không một sức đề kháng nào đáng kể, đến nỗi hai vị Tướng Tư lịnh và Phó Tư lịnh vùng 4 chiến thuật là Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam và Thiếu tướng Lê Văn Hưng đành phải tự vận trong tình huống tuyệt vọng đó.
Nhận xét sau đây có thể xem là xác đáng đối với giả thuyết bảo vệ Miền Tây:
“Để kết thúc bài này, chúng tôi xin ghi lại buổi nói chuyện với một sĩ quan cao cấp gốc Phật Giáo Hòa Hảo đang có mặt tại Hoa Kỳ. Khi được hỏi rằng: “Nếu Phật Giáo Hòa Hảo được giao nhiệm vụ cố thủ Miền Tây, liệu có làm được không?”, vị này đã phân tích rằng:
“Nếu sau khi ký Hiệp định Paris 1973, mà Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu còn nghĩ đến đại cuộc, thì đã phải trù liệu kế hoạch bảo vệ Miền Nam, với sự tham gia của toàn dân, như kiểu một Hội Nghị Diên Hồng ứng phó quốc biến. Phần Phật Giáo Hòa Hảo, nếu tiềm lực quần chúng hai triệu người được tổ chức và chuẩn bị như một tiềm lực đấu tranh chung của dân tộc, nghĩa là không phải khoán trắng cho Phật Giáo Hòa Hảo, mà là phối hợp giữa phương tiện, nhân sự của chánh quyền với tiềm lực địa phương của Phật Giáo Hòa Hảo, chắc chắn chúng ta đã đủ sức bảo vệ Miền Tây, để làm bàn đạp phản công sau này, hay ít ra cũng giữ được yếu tố quan trọng trong bàn Hội nghị Quốc tế về Việt Nam. Ngược lại, nếu cận kề ngày 30-4-1975 mới dồn về Tây An Cổ Tự hay Thánh Địa Hòa Hảo mà không có kế hoạch chuẩn bị thì không thể nào giữ được hai cứ điểm này, chứ đừng nói đến việc bảo vệ cả Miền Tây. Tuy nhiên ngày nay, thời gian đã chứng minh tiềm lực quần chúng đó vẫn là một sức mạnh mà Cộng Sản không thể làm tan rã được.” (*)
Sau khi cứ điểm cuối cùng Tây An Cổ Tự đã bị các đơn vị Cộng Sản tiếp thu, một số đơn vị võ trang của tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo phân tán mỏng kéo vào trong bưng biền và vùng núi Thất Sơn tiếp tục kháng chiến.
Theo một sĩ quan Phật Giáo Hòa Hảo vượt biên sang Hoa Kỳ năm 1985 thì tại Thánh Địa Hòa Hảo có một phiên họp khẩn cấp sáng ngày 1-5-1975, dưới quyền chủ tọa của Thiếu tướng Lâm Thành Nguyên và ông Phan Bá Cầm Tổng Bí thơ Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng với một số cán bộ quân sự chính trị của Phật Giáo Hòa Hảo để thảo luận về tình hình đang diễn tiến rất khẩn trương, và tìm các biện pháp ứng phó. Sau đây là phần trích ra từ bản báo cáo:
“Hội Nghị diễn ra trong bầu không khí khẩn trương cực độ. Cán bộ quân chánh từ nhiều tỉnh về họp, ai cũng cảm thấy tình hình bước vào giai đoạn nguy hiểm. Tin tức từ các nơi báo cáo về sự rã ngũ của quân lực Việt Nam Cộng Hòa làm cho mọi người có ý nghĩ rằng Cộng Sản sẽ đến Thánh Địa một ngày rất gần.
Không ai muốn máu đổ tại đất Thánh, cho nên sau khi đã phân tích và lượng giá tình hình, hội nghị lấy quyết định rút các lực lượng võ trang ra khỏi Thánh Địa, bỏ ngỏ làng Hòa Hảo, những đơn vị võ trang phân tán mỏng về các vùng, do chính các vị chỉ huy tự quyết định. Nói chung ai cũng nhận thấy rằng, vì thiếu kế hoạch chuẩn bị trước, không thể tạo dựng lực lượng kháng chiến trong tình hình hỗn loạn đó...” (*)
Gửi ý kiến của bạn