- Tựa
- Chương I: Nguồn gốc Đạo Phật Giáo Hòa Hảo (Nguyên Thỉ)
- Chương II: Nguồn Gốc Đạo Phật Giáo Hòa Hảo (Hiện Duyên)
- Chương III : Đức Giáo Chủ Và Công Đức Truyền Giáo
- Chương IV: Đức Giáo Chủ và Sứ Mạng Thiêng Liêng
- Chương V: Đức Giáo Chủ Trong Việc Thi Hành Sứ Mạng
- Chương VI: Sự Canh Tân và Quy Nguyên Trong Giáo Lý Phật Giáo Hòa Hảo
- Chương VII: Giáo Lý Căn Bản Phật Giáo Hòa Hảo
- Chương VIII: Tinh Thần Khổng, Lão Trong Giáo Lý Phật Giáo Hòa Hảo
- Chương IX: Tinh Thần Cách Mạng Quốc Gia trong Phật Giáo Hòa Hảo
- Chương X: Phật Giáo Hòa Hảo Với Bản Sắc Dân Tộc
- Chương Thứ XI: Phật Giáo Hòa Hảo Với Quần Chúng
- Chương Thứ XII: Sự Thực Hư và Lối Vần Vè Trong Thi Văn Sấm Giảng Phật Giáo Hòa Hảo
- Chương Thứ XIII: Nền Văn Minh Tây Phương Qua Sấm Kinh Phật Giáo Hòa Hảo
- Chương Thứ XIV: Ý Nghĩa Vô Vi Trong Phật Giáo Hòa Hảo
- Chương Thứ XV: Vấn Đề Hòa Bình Trong Phật Giáo Hòa Hảo
- Chương Thứ XVI: Sự Dung Hóa Giữa Giáo Lý Từ Bi và Tinh Thần Ái Quốc Trong Phật Giáo Hòa Hảo
- Chương Thứ XVII: Bửu Sơn Kỳ Hương và Phật Giáo Hòa Hảo Không Phải Là Một Đoàn Thể Chánh Trị
- Chương Thứ XVIII: Sự Bành Trướng Và Tiềm Lực Tự Tồn Của Phật Giáo Hòa Hảo
- Chương Thư XIV: Phật Giáo Hòa Hảo Ngày Nay
- LỜI BẠT
Nhưng công đức vĩ đại nhất của Đức Giáo Chủ trong việc truyền giáo là việc viết ra Kệ Giảng. Nhờ Kệ Giảng đó mới được phổ truyền một cách sâu rộng chủ trương canh tân phương pháp tu Phật của Ngài và nhờ đó mà hằng triệu người ngộ đạo và quay về với chân tính, tự tâm.
Những tác phẩm của Đức Giáo Chủ viết ra, phần nhiều thuộc thể văn vần. Ngài viết, dầu tản văn hay vận văn, điều đáng để ý là khi cầm bút thì cứ viết thẳng một mạch, không dùng giấy nháp. Người ta có thể nói rằng Ngài viết mau lẹ và dễ dàng hơn ông Aleyone Krishnamurti khi viết cuốn “Aux Pieds du Maitre” vậy.
Có thể kể những tác phẩm trường thiên sau đây của Đức Giáo Chủ :
1.Sám Giảng Khuyên Người Đời Tu Niệm (tức quyển nhứt, văn lục bát, dài 910 câu, xuất bản lần đầu năm 1939). Ngài viết xong trước Đệ Nhị thế chiến, tại làng Hòa Hảo. Sám Giảng nầy khởi đầu bằng câu :
Hạ nguơn nay đã hết đời
Và chấm dứt bởi câu:
Tới đây cũng lần ngừng lại bút nghiên
Nội dung, Đức Giáo Chủ đánh thức quần chúng bằng cách tiên tri những cảnh lầm than khốn khổ mà nhân loại sẽ phải trải qua trong thời đại nhiễu nhương. Chẳng hạn, Ngài nói trước các năm từ xảy ra cho đến khi chấm dứt đệ nhị thế chiến :
Mèo kêu bá tánh lao xao
Đến chừng Rồng Rắn máu đào chỉn ghê
Con Ngựa lại đá con Dê
Khắp trong trần hạ nhiều bề gian lao
Khỉ kia cũng bị xáo xào
Canh khuya Gà gáy máu đào mới ngưng
Người ta đã thấy đúng trăm phần trăm những năm từ khởi đầu cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai (Mèo kêu, 1939) cho đến khi hai quả bom nguyên tử của Đồng Minh bỏ xuống nước Nhựt để chấm dứt chiến cuộc (Gà gáy, 1945) không sai một mảy.
Cảnh giết chóc ghê tởm của chiến tranh tuy ngưng từ năm Gà gáy, nhưng theo Đức Giáo Chủ, nó sẽ còn tái diễn tại Việt Nam và sẽ lan diễn khắp nơi :
Đời còn chẳng có mấy năm
Khắp trong các nước thây nằm bằng non
Cha thì chẳng thấy mặt con
Vợ thì chồng chẳng được còn tại gia
Trong tác phẩm nầy, Đức Giáo Chủ cũng tường thuật việc Ngài hóa hiện ra người đui cùi, buôn bán, khi già lúc trẻ dạo khắp “lục châu” để thử lòng trăm họ, giác tỉnh mọi người, gọi họ theo về đường ngay nẻo Đạo.
2.Kệ Dân Của Người Khùng (tức quyển nhì, văn thất ngôn, trường thiên, dài 846 câu, xuất bản lần đầu năm 1939). Ngài viết tại làng Hòa Hảo ngày 12 tháng 9 năm Kỷ Mão, Kệ nầy khởi đầu bằng câu :
Ngồi Khùng trí đoái nhìn cuộc thế
Và chấm dứt bởi câu :
Ta ra sức dắt dìu bá tánh
Cũng như trong quyển nhứt, ở đây Đức Giáo Chủ vừa tiên tri tai nàn sắp xảy đến cho nhân dân vừa khuyên mọi người làm lành lánh dữ. Chẳng hạn như
Đến chừng đó bốn phương có giặc
Khắp hoàn cầu thiết thiết tha tha
Vậy sớm mau kiếm chữ Ma Ha
Thì Phật cứu khỏi nơi khói lửa
Trung với hiếu ta nên trau sửa
Hiền với lương bổn đạo rèn lòng
Thường nguyện cầu siêu độ Tổ Tông
Với bá tánh vạn dân vô sự
Rồi Ngài không ngần ngại đánh đổ những mê tín dị đoan, những âm thanh sắc tướng, những sự dối tu, lòe đời.
Theo Thần Tú tạo nhiều chuông mõ
Mà xưa nay có mấy ai thành !
----------------
Làm hiền lành hơn tụng hơ hà
Hãy tưởng Phật hay hơn ô ré
-----------------
Những giấy tiền vàng bạc cũng thôi
Chớ có đốt tốn tiền vô lý
-----------------
Tu vô vi chẳng cúng chè xôi
Phật chẳng muốn chúng sanh lo lót
3. Sám Giảng (tức quyển ba, văn lục bát, dài 612 câu, xuất bản lần đầu năm1939)
Ngài cũng viết tại làng Hòa Hảo năm Kỷ Mão, khởi đầu bằng câu :
Ngồi trên đảnh núi liên đài
Và chấm dứt bởi câu :
Chúc cho bá tánh muôn sầu tiêu tan
Trong quyển nầy Đức Giáo Chủ dạy tu nhân đạo. Ngài viết :
Tu cầu cha mẹ thảnh thơi
Quốc vương thủy thổ chiều mơi phản hồi
Tu đền nợ thế cho rồi
Thì sau mới được đứng ngồi tòa sen
Đối với hạng thanh niên nam nữ, thường dễ bị văn minh vật chất hoặc dục vọng lôi cuốn đến bờ trụy lạc, Ngài kêu gọi :
Nghiêm đường chịu lịnh cho an
Loạn luân cang kỷ hổ mang tiếng đời
Hoặc là :
Nghe lời cha mẹ cân phân
Tam tùng vẹn giữ lập thân buổi nầy
Và Ngài cũng cực lực đã phá những hủ tục, vài xích những xa hoa đàng điếm, chẳng hạn:
Chết rồi cũng bớt cóc ken
Trống kèn lễ nhạc tế xen ích gì !
Đàn như thầy lễ cũng kỳ
Mắc phải chuyện gì phủ phục bình hưng?
Hay là :
Văn minh sửa mặt sửa mày
Áo quần láng mướt ngày rày ăn chơi.