Kệ Dân Của Người Khùng - Đoạn 1

26 Tháng Sáu 200212:00 SA(Xem: 26146)
Kệ Dân Của Người Khùng - Đoạn 1

 Ngồi KHÙNG trí đoái nhìn cuộc thế, 

Thấy dân mang sưu thuế mà thương. 

Chẳng qua là Nam-Việt vô vương,

Nên tai-ách xảy ra thảm-thiết. 

Bạc không cánh đổi thay chẳng biết,

Vàng bị nghèo mấy chiếc chẳng còn.

Mới mấy năm sao quá hao-mòn,

Mùa-màng thất, đói đau không thuốc.

Thương hại bấy lê-dân đứt ruột,

Thảm vợ con đói rách đùm-đeo.

Gẫm chữ nghèo thường mắc chữ eo,

Thêm gạo lúa lại tăng giá mắc. 

Nhìn cuộc thế đổi thay quá gắt,

Máy Thiên-cơ mỗi phút mỗi thay.

Nẻo thạnh suy như thể tên bay,

Đường vinh-nhục rủi may một lát.

Ai phú-quí vào đài ra các,

Ta Điên Khùng thương hết thế-trần.

Khuyên chúng-sanh chẳng biết mấy lần,

Nào ai có tỉnh tâm tìm Đạo.

Trai trung-liệt đáng trai hiền-thảo,

Gái tiết-trinh mới gái Nam-trào.

Lời Thánh Hiền để lại biết bao,

Sao trai gái chẳng coi mà sửa ? 

Đời tận thế mà còn lần-lựa,

Chẳng chịu mau cải dữ về lành.

Làm Phật-Nhi phải được lòng thành,

Thì mới đặng vãng-sanh Cực-Lạc.

Tương với muối cháo rau đạm bạc,

Nghèo lương hiền biết niệm Di-Đà.

Mà mai sau thoát khỏi tinh ma,

Lại được thấy cảnh Tiên nhàn-hạ.

Trên Bảy Núi còn nhiều báu lạ,

Rán tu tâm dưỡng tánh coi đời.

Coi là coi được Phật được Trời,

Coi phép lạ của Tiên của Thánh.

Cuộc dương-thế ngày nay mỏng-mảnh,

Mà sang giàu còn hiếp nghèo nàn.

Phải xả thân tầm Bát-Nhã thoàn,

Sau mới khỏi hùm tha sấu bắt. 

Đến chừng đó bốn phương có giặc,

Khắp hoàn-cầu thiết thiết tha tha.

Vậy sớm mau kiếm chữ Ma-Ha,

Thì Phật cứu khỏi nơi khói lửa.

Tưởng nhớ Phật như ăn cơm bữa,

Vọng Cửu-Huyền sớm tối mới mầu.

Chữ Nam-Mô dẹp được lòng sầu,

Sau thấy được nhà Tiên cửa Thánh. 

Ghét những đứa giàu-sang kiêu-hãnh,

Thương những người đói rách cơ-hàn.

Cảnh phồn-hoa khó sánh lâm-san,

Sau sẽ có nhiều điều vinh-hạnh.

Cõi trần-thế hết suy tới thạnh,

Hết lâm nguy đến lúc khải-hoàn.

Tuy tu hành chịu chữ nghèo-nàn,

Sau đắc đạo gặp điều cao-quí.

Mặc bá-tánh đời nầy dị-nghị,

Ta Điên Khùng mà tánh lương-hiền.

Lòng yêu dân chẳng trọng bạc tiền,

Mà dương-thế cứ theo biếm nhẻ.

Sau lập Hội thì già hóa trẻ,

Khắp hoàn-cầu đổi xác thay hồn.

Đức Ngọc-Hoàng mở cửa thiên-môn,

Đặng ban thưởng Phật Tiên với Thánh.

Khuyên trai gái học theo Khổng-Mạnh,

Sách Thánh Hiền dạy Đạo làm người.

Xem truyện thơ chẳng biết hổ-ngươi,

Mà làm thói Điêu-Thuyền, Lữ-Bố.

Sau kẻ ấy làm mồi mãnh-hổ,

Cảnh Núi-Non nhiều thú dị-kỳ.

Nó trọng ai hiền-đức nhu- mì,

Sát phạt kẻ bội cha phản chúa.

Đến chừng đó thiên-la lưới bủa,

Mới biết rằng Trời Phật công-bằng. 

Nếu dương trần sớm biết ăn-năn,

Làm hiền-đức khỏi đường lao-lý.

Học tả-đạo làm điều tà-mị,

Theo dị-đoan cúng kiếng tinh-tà.

Thì sau nầy gặp chuyện thiết-tha,

Đừng có trách Khùng Điên chẳng cứu.

Thấy-bá tánh nghinh tân yểm cựu,

Học ai mà ngang-ngược nhiều lời.

Phụ mẹ cha khinh dể Phật Trời.

Chẳng có kể công sanh dưỡng-dục. 

Thương lê-thứ bày tường trong đục,

Mặc ý ai nghe phải thì làm.

Lời của người di-tịch Núi-Sam,

Chớ chẳng phải bày điều huyễn-hoặc. 

Cảnh Thiên-Trước thơm-tho nồng-nặc,

Chẳng ở yên còn xuống phàm-trần.

Ấy vì thương trăm họ vạn dân,

Nên chẳng kể tấm thân lao-khổ. 

Giả Quê Dốt khuyên người tỉnh-ngộ,  

Giả Bán Buôn thức giấc người đời.

Rằng ngày nay có Phật có Trời,

Kẻo dân-thứ nhiều người kiêu-ngạo. 

Xuống mượn xác nhằm năm Kỷ-Mão,

Buồn xóm làng cứ ghét Điên Khùng.

Nếu trẻ già ai biết thì dùng,

Chẳng có ép có nài bá-tánh.

Nghe Điên dạy sau nầy thơi-thảnh,

Đây chỉ đường Cực-Lạc vãng-sanh.

Đừng có ham lên mặt hùng-anh,

Sa địa ngục uổng thân uổng kiếp.

Theo đạo-lý nhứt tâm mới kịp,

Ngày nay đà gặp dịp tu-hành.

Niệm Di-Đà rán niệm cho rành,

Thì mới được sống coi Tiên-Thánh.

Đức Minh-Chúa chẳng ai dám sánh,

Xưa mạt Thương phụng gáy non Kỳ.

Bởi Võ-Vương đáng bực tu-mi,

Nay trở lại khác nào đời trước. 

Kẻ gian-ác bị gươm ba thước,

Nơi pháp-tràng trị kẻ hung-đồ.

Được thảnh-thơi nhờ chữ Nam-Mô,

Khuyên bổn-đạo rán mà trì-chí.

Xưa Tây-Bá thất-niên Dũ-Lý,

Huống chi ta sao khỏi tiếng đời.

Dòm biển trần cảnh khổ vơi vơi,

Lao với khổ, khổ lao chẳng xiết.

Ghét bạo chúa là xưa Trụ Kiệt,

Mất cơ-đồ lại bị lửa thiêu.

Thương Minh-Vương bắt chước Thuấn Nghiêu,

Lòng hiền đức nào ai có biết. 

Thương trần-thế kể sao cho xiết,

Mượn xác-trần bút tả ít hàng.

Kể rõ ràng những việc lầm-than,

Mặc làng xóm muốn nghe thì chép.

Việc tu-tỉnh Khùng không có ép,

Cho giấy vàng Điên chẳng có nài.

Lòng yêu dân chẳng nệ vắn dài,

Cho bổn-đạo giải khuây niệm Phật.

Việc xảy đến Đây truyền sự thật,

Ấy là lời của Phật giáo-khuyên. 

Rán nghe lời của kẻ Khùng-Điên,

Phật, Tiên, Thánh hãy nên trọng kỉnh.

Bịnh ôn-dịch cũng đừng mời thỉnh,

Cõi ngũ-hành chẳng khá réo-kêu.

Hãy gìn lòng chớ khá dệt-thêu,

Nói xiên-xỏ cũng không no béo.

Đời Nguơn-Hạ ngày nay mỏng-mẻo,

Khuyên thế-trần hãy rán kiêng-dè.

Mặc tình ai lên ngựa xuống xe,

Ta chẳng có ham nơi phú-quí.

Trong bổn-đạo từ nay kim-chỉ,

Đói với nghèo sắp đến bây giờ.

Vì thương đời nên Lão kể sơ,

Cho bá-tánh rõ lời châu ngọc.

Nước Nam-Việt ai là thằng ngốc,

Người đời nay như ốc mượn hồn.

Chim tìm cây mới gọi chim khôn,

Người hiền-đức mới là người trí. 

Theo Phật-Giáo sau nầy cao-quí,

Được nhìn xem Ngọc-Đế xử phân.

Lại dựa kề Bệ-Ngọc Các-Lân,

Cảnh phú quí nhờ ơn Phật-Tổ.

(Kiểm bài ngày 20-9-2010)

Ý kiến bạn đọc
21 Tháng Mười Một 20118:00 SA
Khách
em rất thích chương trình này ok
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn