YÊU NƯỚC
Yêu nước bao đành trơ mắt ngó,
Thương đời chưa vội ẩn non cao.
Quyết đem tâm sự tâu cùng Phật.
Coi lịnh từ-bi dạy lẽ nào.
Phụng-Hiệp, tháng tư Ất Dậu (1945)
Bài này Đức Thầy đọc tại Phụng-Hiệp lúc đi khuyến nông; sau khi diển thuyết, Đức Thầy hỏi câu nầy: "Tôi là một nhà tu hành, lẽ thì vào chốn non cao, núi thẳm, tu tâm dưỡng tánh, cớ nào hôm nay lại xen vào chánh-trị?!"
Không ai nói gì, Đức Thầy có vẻ buồn, cau chơn mày rồi ngâm bài thơ tứ tuyệt trên đây.
(Do theo lời ông Mai-Ngọc-Quế thuật lại).
HỒI CHUÔNG CẢNH TỈNH NHỮNG KẺ TRÔNG TÂY, HẪNG-HỜ VỚI NẠN ĐÓI BẮC-KỲ
Nam-kỳ có một lũ hề,
Mày râu nhẵn-nhụi chuyên nghề buôn dân.
Nhờ ơn Mẫu-quốc vinh thân,
Giờ toan mua tảo bán tần nữa sao?
Dửng-dưng trước nghĩa đồng-bào,
Đói cơm khát nước trông vào thống tâm.
Làm ngơ, giả điếc, giả câm,
Tay ôm hủ bạc, mắt đăm đăm chờ.
Vái rằng: "Mẫu-quốc gặp cơ."
Trở qua Nam-Việt con thờ muôn năm.
Dầu con nay ở xa-xăm,
Chớ lòng thương nhớ đứng nằm không yên.
Trước kia "nước mẹ" xin tiền,
Của muôn trong túi con liền tuôn ra.
Ngày nay tuy chẳng lại qua,
Con cũng lén-lén cúng cha ít nhiều.
Đồng-bào con chết bao nhiêu,
Con để mặc kệ quạ diều bươi thây".
Ai ơi còn nước mơ Tây,
Mắt kia quá tối lại Thầy chửa cho.
SĨ-CUỒNG (biệt hiệu của Đức Thầy)
Tháng tư năm Ất-Dậu, (1945)
CAI TỔNG CHÁNH (CÙ-LAO GIÊNG) xướng
Giữ đạo từ lâu kín nhiệm mầu,
Để lòng tầm đạo biết nơi đâu.
Ngửa mong bái-ái từ-bi hóa,
Trông lượng ơn Thầy chỉ đạo sâu.
ĐỨC THẦY đáp họa
Kín nhẹm lòng nhơn ấy mới mầu,
Đức là đạo cả chớ nơi đâu?
Duyên lành sẵn có ơn trên hóa,
Bồi dắp nền nhơn đức lại sâu.
"PHỤ-NỮ CA DIÊU"
Ngán thay bổn-đạo đàn bà,
Lắm lời điêu-xảo gần xa đều tường.
Làm cho hoen-ố Phật-đường,
Không rèn được đức khiêm-nhường từ-bi.
Tu còn ái-ố sân-si,
Tu còn nhiều tánh dị-kỳ trần mê.
Khó mong cửa Phật dựa kề,
Càng gần địa-ngục nhiều bề thảm thương.
Tỉnh tâm đốt nén tâm hương,
Nguyện rằng đệ-tử một đường lo tu.
Ăn-năn kẻo uổng công phu...!
Sadéc, ngày 28-7-45
(trong lúc Đức Thầy đi Khuyến-nông)
TẶNG THI-SĨ VIỆT-CHÂU
Thi-sĩ Việt-Châu tức là ông Nguyển-xuân-Thiếp mà hầu hết anh em tín-đồ đều nghe danh. Là văn-sĩ kiêm thi-sĩ, ông Việt-Châu có viết một tập thơ xuất sắc, nhan đề "Lông ngỗng gieo tình" để kể lại đoạn tình-duyên của Trọng-Thủy và Mị-Châu.
Trong khi cùng ngồi xe với Đức Thầy trên đường về Sàigòn, ông có trao cho Đức Thầy xem tập thơ ấy. Đức Thầy liền ngâm hai câu thơ dưới đây để phê bình gián-tiếp áng văn kiệt-tác của ông Việt-Châu.
"Mị-Châu ơi hỡi Mị-Châu,
Mê chi thằng chệt để sầu cho cha!"
Liền đó, Đức Thầy bảo ông Việt-Châu thử làm thi tả cảnh ngổi trên xe trên đường về Sàigòn. Thấy ông Việt-Châu nặn óc mãi mà không ra thơ, Đức Thầy liền ứng khẩu đọc bài dưới đây:
Xe về chở theo chàng thi-sĩ,
Bảo làm thi mãi nghĩ không ra.
Vậy mà giữa chốn phồn hoa,
Vang danh thi-sĩ hiệu là Việt-Châu.
Quen thói viết thơ sầu thơ cảm.
Không dìu dân hăc ám qua truông.
Ngâm nga giọng quá u buồn,
Làm cho độc-giả quay cuồng mê-ly.
Theo dõi gót từ-bi mấy bữa.
Phàm tâm kia đã rửa hay chăng?
Thi-nhân đứng ngó để tăng-sĩ làm.
Tăng-sĩ quyết chùa, am bế cửa,
Tuốt gươm vàng lên ngựa xông pha.
Đền xong nợ nước thù nhà,
Thiền môn trở gót Phật-Đà nam-mô.
Chừng ấy mới tịnh vô nhứt vật,
Bụi hồng trần rứt sạch cửa không.
Chuông linh ngân tiếng đại-đồng,
Ta-bà thế-giới sắc không một màu.
Sài-Gòn đến, trống lầu đã trở.
Đề-huề nhau cửa mở xuống xe.
Khuyến nông chấm dứt mùa hè...
Trên đường về Saigon, tháng 6 năm Ất-Dậu (1945)
ĐI KHUYẾN NÔNG VỀ
Lìa Saigòn trong vòng hai tháng,
Khi lộn về tiệm quán tanh-banh.
Bởi chưng pháo lũy phi hành,
Quăng bôm mù quáng tan-tành còn chi.
Động lòng của kẻ từ-bi,
Tây-Phương tấu lại A-Di Phật-Đà.
Rằng: bên thế-giới ta-bà,
Chúng-sanh tàn-sát cũng là vì tham.
Di-Đà mở cuộc hội-đàm,
Cùng chư Bồ-Tát quyết đam phép lành.
Tịnh bình rưới khắp chúng-sanh,
Làm cho giác-ngộ hiền lành như ta.
Công-đồng hoạch-định san-hà,
Nước ai nấy ở nhà nhà tự-do.
Saigon, tháng 6 năm Ất Dậu (1945)
TỰ THÁN
Gió hiu-hắc bên rừng quạnh-quẽ,
Nhìn non sông đượm vẻ tang-thương.
Mối tình chủng-loại vấn-vương,
Thấy quân xâm-lược hùng cường căm gan.
Vừa toan rút gươm vàng ngăn giặc,
Bổng họa đâu gieo rắc bất-kỳ.
Cường quyền một lũ ngu-si,
Oan nầy hận ấy sử ghi muôn đời.
Truyền khắp nước muôn lời vu cáo,
Dùng trăm ngàn thói bạo hiếp dân.
Làm cho trong nước rẻ phân,
Làm cho giặc Pháp một lần sướng rang.
Vậy cũng gọi an bang định quốc,
Rồi rút lui bỏ mất thành trì.
Giống nòi nỡ giết nhau chi?
Bạng duật tương trì lợi lũ ngư ông.
Đoàn hậu tấn có lòng yêu nước,
Khá nhìn xem gương trước răn mình.
Riêng ta hai chữ nhục vinh,
Thoảng cười thế sự nhân tình quá đen.
***
Lòng dân chớ khá xem khinh,
Bạo tàn giết mất nhân tình thì thua.
Miền Đông, cuối năm Ất-Dậu (1945)