Những Bài Sáng-tác Năm Kỷ-mão (1939) - Phần 6

28 Tháng Sáu 200212:00 SA(Xem: 41077)
Những Bài Sáng-tác Năm Kỷ-mão (1939) - Phần 6

Ông NGUYỄN-KỲ-TRÂN
tức chín Diệm xướng (1)

Ngàn dậm nghe ông có phép tiên,
Cúi xin lời hỏi chớ ưu phiền.
Thanh manh đôi mắt đường không thấy,
Cầu có ơn dư cứu kẻ hiền.

Kẻ hiền dầu đặng sáng như xưa,
Ơn ấy bằng non dạ có thừa.
Lượng rộng xin ông đừng có chấp,
Ngàn vàng dám đổi một lời ừa.

ĐỨC THẦY đáp

Chí đại còn xa chửa phép tiên,
Bịnh tình cụ lão quá ưu phiền.
Nhà tôi cũng có bà không thấy,
Thương thảm trời xanh phụ kẻ hiền.

Kẻ hiền lòng dạ tưởng người xưa,
Tứ khổ cổ kim vẫn có thừa.
Triu-mến tâm thành đâu có chấp,
Vọng cầu hạnh phước đặng như xưa.

Di-Đà lục tự ấy phương-châm,
Ghi dạ xin ông hoặc đứng nằm.
Khẩn vái trì tâm người thượng-cổ,
May trời phò hộ phước cho thầm.

Khuyên đó lòng son chớ vội buồn,
Hữu thành Phật độ ắt qua truông.
Nhờ ơn Tiên, Thánh trăm muôn một,
Tôi cũng giùm cho đặng thấy tuồng.

Hòa-Hảo, cuối năm Kỷ-Mão

(1) Ông Nguyễn-kỳ-Trân là người làng Định-Yên, thuộc tỉnh Long-Xuyên, hai mắt không thấy nên đến nhờ Đức Thầy chữa giùm.

CHẲNG RA HƠI

(Ông Nguyễn-kỳ-Trân ao-ước Đức Thầy giảng-giải về Đạo-đức cho ông nghe, nhưng vì lúc đó có người của sở Mật-Thám đến dò xét nên Đức Thầy chỉ làm bài thi dưới đây):

Định-Yên cụ lão mới sang chơi,
Tâm bịnh bất an khó cạn lời.
Ông chớ nãn lòng chờ lúc khác,
Bây giờ mở miệng chẳng ra hơi.

Hòa-Hảo, cuối năm Kỷ-Mão

KHAN TIẾNG

Lúc nầy khan tiếng sự sầu riêng,
Mở giọng thì nhân gợi nỗi phiền.
Hơi-hám xác trần ngâm chẳng nổi,
Mực tàu đã cãn ráo ngòi nghiên.

Hòa-Hảo, cuối năm Kỷ-Mão

Tặng Ông GIÁO XOÀI
(tức Soài, tức Mạnh-xuân-Quả, lúc ấy dạy học tại làng Phú-An, thuộc tỉnh Châu-Đốc)

Giáo tập hôm nay thấy mặt thầy,
Vóc hình mập-mạp học khoa tây.
Sớm chiều luyện tập dìu em trẻ,
Ạ, ẹ, a, b đủ một bầy.

Một bầy em trẻ muốn theo tây,
Văn pháp, văn nam cũng đủ đầy.
Thương thảm tấm tình hay nóng-nảy,
Bởi vì chẳng rảnh đặng vui say.

Hòa-Hảo, cuối năm Kỷ-Mão

Tặng Ông GIÁO ĐÀNG

(Lúc ấy ông nầy đang dạy hoc tại làng Phú-Lâm, tỉnh Châu-Đốc)

Tâm tánh ngày nay muốn việc lành,
Tu hiền miệng lưỡi muốn lanh lanh.
Tranh đua xác thịt vừa nghe chớ,
Cố chí ngày kia sẽ đạt thành.

Đạt thành mới hiểu Đạo cao thanh,
Trần-thế lánh xa phải học rành.
Lục căn trừ tuyệt tầm hai chữ,
Nhân ngã, sân si hãy dẹp đành.

H.H., cuối năm Kỷ-Mão

THI XUÂN

Rước xuân năm mới tiếng đì-đùng,
Cờ phất trẻ mừng chúc cội thung.
Áo quần lòe-loẹt đi cùng xóm,
Bánh trái dẫy-đầy nỗi cúc cung.

Chúc mừng năm mới, mới buổi qua,
Bỏ bớt dị-đoan chẳng cúng gà.
Tre nêu phơ-phất không còn thấy,
Ra mắt tiêu mòn bữa thứ ba.

Kỷ-mão năm nay đã hết rồi,
Tâm thần hoài tưởng chuyện xa-xôi.
Đạo mầu Nam địa càng thâm-diệu,
Dẫn dắt nhơn-sanh cũng chửa rồi.

Bước qua năm mới, mới mừng à,
Khuyến-khích dân tầm đạo Thích-Ca.
Tự giác, giác tha ta phải nói,
Hỡi người dương-thế bớt xa-hoa.

Xa-hoa năm mới, mới khổ à,
Dân chớ chần-chờ chớ bỏ qua.
Dạo-lý xem tường âu mới hãn,
Rán tìm cặn-kẻ nỗi ma-ha.

Năm Thìn bước tới thiệt là rồng,
Nanh gút vẫy-vùng nỗi long-đong.
Chiến-tranh thảm-khốc toàn lê-thứ,
Lo nỗi đói đau giống Lạc-Hồng.

Canh-Thìn bước tới hỡi dân ơi!
Thế-giới đao binh ruột rã-rời.
Khốn nguy đa sự chào xuân mới,
Dân-chúng hoàn cầu khó thảnh-thơi.

Phi phi bỗng xuất mặt Huỳnh-Long,
Dụng lối Bá-Nha réo Lạc-Hồng.
Chạnh cám cha còn con chẳng biết,
Phải nhờ đạo-đức mới tường thông.

Phần ta thương chúng luống âu sầu,
Dân sự nào tường nẻo cao sâu.
Bôn Bắc tẩu Nam cam khổ rối,
Nhưng vì bổn-phận phải toan âu.

Con người Nguơn-hạ mấy nhiêu hơi.
Đạo-đức nhiệm mầu chẳng có chơi.
Lê-la chậm bước đàng bụi gió,
Phải sớm lánh xa khỏi cuộc đời.

Mãnh hồ đâu đua chí tanh-bồng,
Rạng mày nởi mặt với non sông.
Quân-tử thánh-nhơn ghi Nhược-hủy,
Cơn buồn chấp bút chuyển huyền thông.

Hòa-Hảo, ngày 28 tháng chạp Kỷ-Mão
(Chép theo bản chánh do ông Nguyễn-Chi-Diệp giữ)

CÁM CẢNH DÂN NGHÈO

Tết tết cùng năm tháng hết mà,
Thằng bần công nợ chạy bôn-ba.
Hên mai hẹn mốt chờ khai hạ,
Con đòi áo tốt rối chàng ta.

Năm nay ăn tết thật là nghèo,
Sanh-chúng u-buồn nỗi nạn eo.
Đồng khô lúa ngập coi xơ-xác,
Cảnh đói buông lung nỗi giạt bèo.

Nhắn-nhủ khắp nơi hỏi một bài,
Ba ngày xuân nhựt bởi nơi ai?
Rượu-trà, cờ-bạc, ôi phung-phí,
Chẳng biết lệ xưa của ai bày?

Tết rồi tết nữa, tết liền tay,
Năm cuối mỗi năm cũng tết hoài.
Làm cho dân-sự vui nha-nhớp,
Chơi giỡi ba ngày rước xuân lai.

Lòng ta cảm thấy nỗi u-buồn,
Suy xét việc đời lụy muốn tuôn.
Chào xuân chẳng thấy xuân mừng nói,
Mê-mệt tâm can trí bắt xuồng.

Hòa-Hảo, ngày 28 tháng chạp Kỷ-Mão

HAI MƯƠI CHÍN THÁNG CHẠP

Bước tới hùng ca bước tới hoài,
Đạo đời hủy báng mặc tình ai.
Cố chí nhiệm-mầu truyền diệu-pháp,
Bời vì cốt-nhục cũng hoài thai.

Diệu-vợi xa-xăm nỗi khổ hoài,
Cuộc đời lao-khổ thấy chiều mai.
Chợt ngó xuân sang xuân biết khóc,
Đến thời Thiên định lối bi ai.

Giục-thúc nhơn-sanh kiếm Đạo mầu,
Sao còn hoài tưỡng chuyện đâu đâu?
Sự sống người đời, ôi! thấy khổ,
Miệt-mài Đạo-đức vẻ huyền sâu.

Hùng xa chuyển pháp kiếm tôi hiền,
Thiên-địa tuần huờn chẳng vị riêng.
Gian nịnh phản thần, ôi! nhơ-nhuốc,
Gìn lòng trung hiếu sách ghi biên.

Ghi biên những kẻ quá lương hiền,
Một mực trung thành với Phật-Tiên.
Cố tưởng ước-mơ về Tiên cảnh,
Hiếu hạnh gìn lòng chí ư thiên.

Ư thiên Trời Phật chẳng dụng tiền,
Tìm kiếm con lành giải nghiệp-duyên.
Mê-muội ác-hung về địa-ngục,
Hiền lành nhắm mắt thấy non Tiên.

Non Tiên ra sức tháo dây xiềng,
Dân-chúng an nhàn dạ mới yên.
Cám cảnh thương đời, ôi! mê-muội,
Mong-ước ngày kia giải mộng phiền.

Mộng phiền muốn khỏi phải làm sao?
Hung dữ, ác nhơn chớ bước vào.
Gìn tâm nhu-nhược chờ vận đến,
Vậy mới rời xa cảnh máu đào.

Nhảy đùng ắt phải lọt ngoài sâu,
Chẳng gặp xuồng ghe chững mới rầu.
Làm sao lo liệu tu cho kịp,
Bập-bẹ nam-mô cũng nhọc cầu.

Nhọc cầu bịnh tật nổi nào đâu,
Lao-khổ nhơn-sanh cảnh nước Tàu.
Trẻ nhỏ rã-rời xa bố mẹ,
Sao còn tranh-đoạt mảng mồi câu.

Mồi câu danh-lợi chúng dân rầu,
Kim chỉ phải gìn chuyện cạn sâu.
Vinh-hoa phú-quí chòm mây bạc,
Nho-nhã thi-văn nẻo nhiệm-mầu.

Nhiệm-mầu hạnh-đức quá thanh-cao,
Thần, Thánh, Phật, Tiên xuống kêu gào.
Dương-gian mau tỉnh trong tràng mộng,
Tầm kiếm nơi nào đạo siêu cao.

Hòa thôn Hảo cảnh xứ chi ta,
Tạm dắt nhơn sanh khỏi ái hà.
Tạo xác Huỳnh danh thanh sắc trẻ,
Chờ thời Thiên định thiết hùng ca.

KIM ngọc nào tri Phật, Quỉ, tà.
SƠN đài ra sức dẹp loài ma.
THƯỢNG thọ chúc cầu an bốn biển,
ĐẲNG đẳng dưới trên sớm thuận-hòa.

Mong ước ngày kia đặng khải hoàn,
Địa cầu sanh-chúng được nhàn an.
Bốn biển một nhà Cha: Phật, Thánh,
Thì là dân sự hết tàn ngang.

Năm tàn tháng cuối cảnh buồn teo,
Đón rước hạn xuân lễ quá nghèo.
Thượng cổ gần hồi nên sửa lối,
Theo nhà Phật-Giáo phải như keo.

Dân-chúng chớ nên đốt giấy tiền,
Bời vì Diêm-chúa chẳng tình riêng.
Phán-quan tả hữu không dùng hối,
Nên phải dạy dân bỏ giấy tiền.

Vàng bạc bởi tay khách trú làm,
Phật, Thần, Tiên, Thánh chẳng dùng ham.
Giấy quần giấy áo không nên đốt,
Nghĩ chuyện dối ma chẳng đáng làm.

Hòa-Hảo, ngày 29 tháng chạp Kỷ-Mão
(Chép theo bản chánh dao Ông Nguyễn-Chi-Diệp giữ)

ĐÊM BA MƯƠI

Đêm nay mới cũ hiệp hai dàng,
Xuân nhựt lễ nầy tại thế-gian.
Mèo rồng cao thấp chơi cùng giỡn,
Đông hạ xuân sang khắp địa hoàng.

Bóng trăng vằng mặt, tối tối hoài,
Hai giờ hiệp mặt, hai giờ hai.
Một đêm mới cũ cùng nhau gặp,
Tức cảnh thi văn nhả một bài.

Một bài từ cũ mới ngày mai,
Tiếng pháo xa xa vẫn đốt hoài.
Dân ta nghèo túng về Đạo-đức,
Chơi giỡn đua-bơi mãi tối ngày.

Một lúc lâu lâu một tiếng đùng,
Đúng giờ cũng rước ông bà chung.
Từ-bi hai chữ ta ngồi tưởng,
Không có xu mua đốt miệng hùn.

Hòa-Hảo, đêm 30-12 Kỷ-Mão

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn