Những Bài Sáng-tác Năm Kỷ-mão (1939) - Phần 1

28 Tháng Sáu 200212:00 SA(Xem: 47130)
Những Bài Sáng-tác Năm Kỷ-mão (1939) - Phần 1

LỘ CHÚT CƠ HUYỀN

Trần-thế lợi danh giấc mộng tràng.
Đời cùng Tiên Phật hạ phàm gian.
Hỡi ai tâm trí mau tầm Đạo,
Tầm Đấng hiền từ cừu thế-gian.
Khắp trong bá-tánh kề cảnh khổ,
Đạo-đức hiền lành kiến Tiên-bang.

Thiên-địa u-minh dĩ đạo tràng,
Thập bát chư hầu lụy há khan.
Đao-lý tầm sâu sâu chẳng cạn,
Đời cùng ly-loạn khắp chư bang.

Thương hải tang điền ắt chẳng yên,
Thiên Địa diệt gian dĩ thiện riêng.
Cơ thâm họa diệc từ đây có,
Bộ máy thiên-cơ ắt đảo huyền.
Tuất-Hợi nhị niên giai tiền định,
Huờn lai Thượng-cổ mới bình yên.

Điên này vốn thiệt ở núi vàng,
Thương đời nói rõ việc lầm than.
Khuyên trong lê-thứ mau mau tỉnh,
Yên trí nghĩ suy biết đá vàng.

Ý gì Tiên-Trưởng muồn khuyên đời,
Mà đời lầm-lạc lắm đời ôi!
Đạo-đức nhuốc-nhơ mà sao đặng,
Tỉnh giấc mau mau mới kịp thời.

Bi-động từ tâm gọi mấy lời,
Chúng-sanh Nam Bắc lụy tuôn rơi.
Kim-Sơn xem thấy lòng tha-thiết,
Mà còn nhiều lắm, chúng-sanh ôi!

Nam-Việt cúi lòn dài dặm-dặc,
Nhưng ấy chẳng qua tại lẽ trời.
Đạo-hạnh huyền-cơ khuyên đó kiếm,
Chẳng vậy sau nầy khó thảnh-thơi.

Cồ ngữ hằng ghi thậm khổ đa,
Tận diệt nhơn-gian trực tiên khoa.
Lão giả hậu qui nhơn ấu giả,
Ly-kỳ thiên định dĩ thiên-la.

Tây-Phương trở gót quá xa đàng,
Thương xót Nam-kỳ lại An-giang.
Đoái thấy xóm làng thêm bắt chán,
Yêu đời mê-muội luống bầm gan.

Thiên-Trước toà sen có chỗ ngồi,
Xuống trần chẳng dụng chốn cao ngôi.
Khắp trong Sáu-Tỉnh toàn giả dối,
Xá phướng tăng-sư tạo việc tồi.
Thiên-cơ thế-giới đà biến chuyển,
Từ rày trần-hạ lợi danh trôi.
Tu hành giả dối khuyên khá đổi,
Cúng kiếng trai đàn cũng nên thôi.

Hòa-Hảo, tháng 6 năm Kỷ-Mão.

CHO ĐỨC ÔNG MẤT GHE

Thoàn nhỏ ly gia vị tất nan,
Bửu sanh du-lịch Lục-Châu giang.
Kim-Sơn thương-mãi toàn lê-thứ,
Thức tỉnh bá-gia giấc mộng tràng.

(Đức Thầy đọc bài nầy cho Đức Ông nghe và bảo Đức Ông kiếm mấy ông thầy nho mượn bàn thử!).
Hòa-Hảo, tháng 7 Kỷ-Mão.

MẶC TÌNH AI
(Nhơn việc người ngoại Đao chỉ-trích Đức Thầy)

Bá gia mặn lạt mặc tình ai,
Đạo-lý tầm đâu chẳng thấy rày.
Chỉ thấy hình trơ thân xác trọi,
Ai người tâm đạo nghĩ càng hay;
Ai người thích đạo thấy chàng ray.

Thầm thầm tối tối gẫm ai hay,
Mặc sức dương-trần chữ đắng cay.
Có báu thì ta dành của báu,
Ai tầm cho giỏi mới được hay.

Lo lo liệu liệu chịu tiếng trần,
Có một hội nầy rán lập thân.
Chớ để trễ chầy rèn chẳng kịp,
Khuyên ai khuya sớm rán chuyên cần.

Hòa-Hảo, tháng 6 năm Kỷ-Mão.

BÁNH MÌ

Mì kia gốc phải nước mình không?
Nghe thấy rao mì thốt động lòng.
Chiếc bánh não-nùng muì khách lạ,
Bát cơm đau-đớn máu cha ông.
Văn-minh những vỏ trưng ba mặt,
Thâm-thía tim gan ứa mấy giòng.
Nhớ lại bảy mươi năm trở ngược,
Say mì lắm kẻ bán non sông.

Khải-hoàn dân-chúng mới nhàn an,
Dân mảng còn mê giấc mộng tràng.
Thảm-thê thế sự mùi cay đắng,
Ta hỡi đau lòng khách ngoại bang.

H.H năm Kỷ-Mão (tại nhà ông Nguyễn-duy-Hinh)

Ông LƯƠNG-VĂN-TỐT hỏi:

(Ông Tốt ở làng Mỹ-Hội-Đông, tỉnh Long-Xuyên)

Mộ đạo ơn trên chưa hiểu danh,
Xin ông phân cạn chúng nghe rành.
Ba ngàn thế-giới ai là chủ?
Mở lượng từ-bi dạy chúng-sanh.

ĐỨC THẦY đáp họa:

Vưng lịnh Phật Tôn chưa hiệu danh,
Ngặt vì pháp-luật khó phân rành.
Càn-khôn muốn biết ai là chủ,
Tu hành theo dõi đến mây xanh.

Vì sao thế-giới lại ba ngàn?
Học đã rành chưa dến hỏi han?
Đã lãm nho văn thì hãy đối,
Đáp lời cho vẹn kiến Tiên-bang.

Đời văn-vật say mê khổ thảm,
Người nào đà tường lãm nho-văn;
Xưa nay mèo-mả lung-lăng,
Làm cho quên mất đạo hằng thánh- nhơn.
Nay gặp kẻ có cơn thức-tỉnh,
Phận làm người thủng-thỉnh sửa-sang.
Tay xuống bút nói lang chuyện thế,
Bày đạo mầu cứu-tế nhơn sanh;
Kia kia các bực công-khanh,
Miễu son tạc để đành rành chẳng sai.
Hỡi ai kẻ học hay lo liệu,
Rứt bụi trần bận-biệu làm chi.
Làm cho rồi phận tu-mi,
Sau nầy sẽ thấy ly-kỳ Năm-Non.
Chừng Bảy-Núi lầu son lộ vẻ,
Thì người già hóa trẻ dân ôi!
Tu hành ắt được thảnh-thơi,
Lại xem được Phật được Trời báu thay!
Thân hành đạo đắng-cay phải chịu,
Phận làm người phải liệu cho xong.
Cần chi gạn hỏi viển-vông,
Làm người chưa vẹn khó hòng thảnh-thơi.
Nói nhiều lắm xe lơi tình nghĩa,
Chữ hiền lành trau-trỉa cho xong;
Thấy đời trần hạ long-đong,
Chẳng lo khó thấy Mây-Rồng hội kia.

Hòa-Hảo, tháng 6 năm Kỷ-Mão.

CHO CÔ TƯ CỨNG Ở HÒA-HẢO (CHÂU-ĐỐC) MẤT ĐỒ

Kích động thiện tâm lụy xót-xa,
Thoàn loan trở gót dụng tiên-khoa.
Khuyên giải phàm nhơn tan sầu muộn,
Vật-dụng gia-đình khó kiếm ra.

Thương đó lòng đây rất thiết-tha,
Thiên định số căn mới xảy ra.
Đoái thấy tà-gian Trung-Trực ghét,
Nhưng vì vận hạn chẳng phui ra.

Hòa-Hảo, ngày 17 tháng 7 năm Kỷ-Mão.

(Bài nầy Đức Thầy bảo cậu út Huỳnh Thạnh-Mậu, bảo đệ của Ngài, đem trao cho cô tư Cứng nói rằng là "của ông thầybói mượn đưa cho cô")
L.S.G.- Trong cuốn "Sấm Giảng khuyên người đời tu niệm" có đoạn nói về chuyện cô tư Cứng mất đồ như vầy:

"Con thuyền đương lướt gió sương,
Bỗng nghe tiếng khó tư-lương ai-hoài.
Có người ở xóm bằng nay,
Bị mất trộm rày đồ-đạc sạch trơn.
Du-thần bày tỏ nguồn cơn,
Rằng người nghèo khó đương hờn phận duyên.
Điên nghe vội-vã quày thuyền,
Dùng khoa coi bói giải phiền phàm nhơn.
Coi rồi bày tỏ thiệt hơn,
Khuyên cô đừng giận đừng hờn làm chi."

CHO ĐỨC ÔNG VÀ ĐỨC BÀ

Chừng nào viết nọ liền da, (1)
Chuột kia mãm hạn khỉ vào vườn hoa.
Ấy là thời đại của ta,
Thầy ra cứu thế mới là hiển-vinh.

H.H, tháng 8 năm Kỷ-Mão.

"HỐ HÒ KHOAN"(2)

Huỳnh long lộ vĩ ; Bạch-sĩ tiên sanh,
Nam-quốc công khanh ; Ra đời cứu tế;
Hò xang cự xế; Mắc kế Trương-Lương,
Tự giác thôn-hương; Qua dương cơ-khi.
Lập chí hiền nhơn; Nên mới có cơn,
Thất-Sơn tiếng nổ; Qui cổ diệt kim.
Cửu cửu y nhiên; Tinh riêng tham báu,
Đổ máu tuôn rơi; Khùng mới nói chơi,
Chư bang hàng phục.
Anh hố hò khoan; Tinh lang xự xế,
Bỏ phế hương thôn; Ra đời bất chiến,
Nổi tiếng từ-bi; Lời lẽ rán ghi.
Thành công êm thấm; có lắm người yêu.

Hòa-Hảo, lối tháng 8 năm Kỷ-Mão.

(1) Sau khi đi Tà-Lơn với Đức Thầy về, Đức Ông đau bàn chơn trát ngó hai tháng.
(2) Phần nhiều bài của Đức Thầy không có đề tựa. Muốn cho tiện việc sắp-đặt trong quyển sách nầy, chúng tôi tùy theo ý nghĩa của mỗi bài mà đề một cái tựa. Những bài nào có tựa mà chúng tôi chắc rằng do Đức Thầy đặt thì chúng tôi đề vào dấu móc.
Ý kiến bạn đọc
05 Tháng Hai 201611:16 CH
Khách

Tôi nghĩ bài Hố Hò Khoan thiếu 2 câu:
Trong trang này:
Bỏ phế hương thôn; Ra đời bất chiến,
Phải là:
Bỏ phế hương thôn; Ác đức vô môn,
Rồng mây hội yến; Ra đời bất chiến,

Xin sửa lại.
Kính

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn