Những bài sáng-tác năm Nhâm-Ngũ (1942) - Phần 4

29 Tháng Bảy 200212:00 SA(Xem: 41352)
Những bài sáng-tác năm Nhâm-Ngũ (1942) - Phần 4

NHỮNG CÂU CHÚ THƯỜNG NIỆM

Thấy trong quyển "Tăng đồ nhà Phật" có chép những câu chú mà xưa kia các vị "tì theo""tì kheo ni" thường dọc trong những công chuyện thường ngày, Đức Thầy lúc còn ở Bạc liêu, bèn dịch mấy câu chú nầy bằng lối thơi vần.

Dưới đây là những câu chú bằng hán văn và phạn văn, kế đó là những bài của Đưc Thầy dịch lại.

Thùy miên thỉ ngộ,
Đương nguyện chúng-sanh.
Nhứt thiết trí giác,
Châu cố thập phương.

Như tôi tỉnh giấc lúc bình minh,
Chí nguyện cầu cho cả chúng-sinh.
Tâm trí khai thông cùng tỉnh táo,
Mười phương đều rõ máy anh linh.

Đại tiểu tiện thời,
Đương nguyện chúng-sanh.
Khí tham, sân si,
Quyên trừ tội pháp.
(Án ngận lỗ đà da tá ha!)

Cũng như tôi tiểu tiện ra,
Nguyện cầu sanh-chúng tống ra khỏi mình:
Tham-lam, gây-gỗ, si tình,
Khỏi điều tội-lỗi nhẹ mình cao bay.

Sự ngật tựu thủy,
Đương nguyện chúng-sanh.
Xuất thế Pháp trung,
Tốc tật nhi vãng.

Việc xong rồi đến tôi dùng nước,
Cũng như tôi lấy nước nầy ra.
Nguyện chúng-sanh xuất khỏi ta-bà,
Nhờ đạo-pháp lướt qua mau chóng.

Tẩy dịch hình uế,
Đương nguyện chúng-sanh.
Thanh tịnh điều nhu,
Tât kiến vô tất.

Như tội rửa sạch khỏi dơ mình,
Chí nguyện cầu cho cả chúng-sanh.
Đắc được thân tâm, thanh tịch lạc,
Điều hòa chẳng nhiễm nghiệp mê-linh.

Dĩ thủy quân chường,
Đương nguyện chúng-sanh.
Đắc thanh tịnh thủ,
Thọ trì Phật-pháp.
(Án chủ ca ra da ta ha!)

Lấy nước tôi rửa sạch tay,
Nguyện cầu sanh-chúng được tay thơm lành.
Ngõ hầu nắm pháp vô sanh,
Giữ-gìn lời Phật ban hành từ xua.

Dĩ thủy tầy diện,
Đương nguyện chúng-sanh.
Dắc tịnh pháp-môn,
Vĩnh vô cấu nhiễm.

Lấy nước rửa sạch mặt mày,
Tối nguyền sanh-chúng đắc rày pháp-môn.
Lặng yên trong cõi trường tồn,
Chẳng hề tiêm nhiễm tục hồn bợn nhơ.

Thấu khẩn liên tâm tịnh,
Dẫn thủy bá hoa hương.
Tam nghiệp hằng thanh tịnh,
Đồng Phật vãng Tây-Phương.
(Ám hám án hản tá ha!)

Súc miệng tôi cugn lóng lòng,
Ngậm nước như ngậm trăm bông đủ mùi.
Cầu tịnh ba nghiệp xong xuôi,
Tây-Phương quyết đến chung vui Phật-đài.

Thủ chấp xát nha,
Đương nguyện chúng-sanh.
Giai đắc diệu pháp,
Cứu cánh thanh-tịnh.

Tay tôi cầm lấy xát nha,
Nguyện cầu sanh-chúng gặp khoa diệu-mầu.
Thảy đều thấy lý cao sâu,
Đến nơi yên tỉnh tột sâu vô ngằn.

Trước hạ quần thời,
Đương nguyện chúng-sanh.
Phục chư thiện căn,
Cụ túc tàm hủy!

Cũng như tôi mặc quần dây,
Đặng cho phần dưới khỏi thây lỏa-lồ.
Nguyện chúng-sanh điểm-tô điều thiện,
Lấy việc lành che chuyện xấu-xa.

Nhược trước thượng y,
Đương nguyện chúng-sanh.
Hoạch thắng thiện căn,
Chí pháp bỉ-ngạn.

Như tôi mặc áo trên vào,
Nguyện cầu sanh-chúng trùm bao gốc lành.
Trổi bước tìm cuộc vô sanh,
Đến nơi sáng-suốt tịnh-thanh Niết-Bàn.

Chỉnh y thú đái,
Đương nguyện chúng-sanh.
Kiểm thúc thiện căn,
Bất linh tán thất.

Như tôi gài áo buộc ràng dây,
Cầu nguyện chúng-sanh khắp cõi nầy.
Buộc chặt căn lành vào thể-phách,
Chẳng lo thất lạc đổi cùng thay.

Nhược đắc kiến Phật,
Đương nguyện chúng-sanh.
Đắc vô ngại nhãn,
Kiến nhứt thiết Phật.

Như tôi được thấy Phật đây,
Nguyện cầu chúng-sanh đắc rày nhãn-quan.
Mắt thông dòm suốt khắp ngàn,
Nhìn thấy chư Phật thập phang đại đồng.

Pháp-vương vô thượng tôn,
Tam giái vô luân thất;
Thiên nhơn chi đạo sư,
Tứ sanh chi từ phụ.
Ngã kim tạm qui y,
Năng diệt tam kỳ nghiệp.
Xưng dương nhược tán thán,
Ức kiếp mạc năng tân.

Ngài là vua Pháp tột cao,
Khắp trong ba cõi chẳng sao sánh tày.
Tiên, người đồng kính đạo Thầy,
Cha lành hết cả bốn loài chúng-sanh.
Nay tôi qui mạng thiệt hành,
Ngõ mong trừ dứt nghiệp sanh ba đời.
Tỏ ra khen ngợi những lời,
Dầu cho ức kiếp chẳng nơi nào cùng.

Thiên thượng thiên hạ vô như Phật,
Thập phương thế giái diệc vô tỷ.
Thế-gian sở hữu ngã tân kiến,
Nhứt thiết vô hữu như Phật giả.

Trên dưới trời chẳng ai bằng Phật,
Khắp mười phương hẳn thật khó so.
Dòm trong cõi thế rộng to,
Một người khó kiếm sánh so cùng Ngài.

Sự lễ, sở lễ, tánh không tịch,
Cảm ứng đạo giao nan tư nghị.
Ngã thử đạo tràng như đế châu,
Thập phương chư Phật ảnh hiện trung.
Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền,
Đầu diện tiếp túc qui mạng lễ.

Sự lạy Phật vốn không yên tĩnh,
Đạo cảm-giao khó tính khôn bàn.
Nay tôi ở trong đạo tràng,
Cũng như kết chặt vào đoàn ngọc-châu.
Mười phương Phật hiện bàu hình ảnh,
Có bóng tôi cũng sánh các Ngài.
Từ chơn cho chí mặt mày,
Cúi đầu làm lễ nguyện rày qui y.

Phật quan nhứt bát thủy,
Bát vạn tứ thiên trùng.
Nhược bất trì thủ chú,
Như thực chúng-sanh nhục.
(Án phạ tất ba ra ma ni tá ha!)

Phật thấy chén nước có trùng.
Bốn ngàn tám vạn muốn dùng cho tinh.
Nếu không trì chú niệm kinh,
Khác nào ăn thịt chúng-sanh hằng-hà.

Nhược kiến không bát,
Đương nguyện chúng-sanh.
Cưú cánh thanh-tịnh,
Không-vô phiền-não.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn