(Nhâm Ngọ từ 12-02-2002 đến 31-01-2003)
(Trích dẫn tác phẩm Tìm Hiểu Tử Vi Đẩu Số Và Địa Lý, quyển hạ của Gs Nguyễn-Phú -Thứ)
Sau năm Tân Tỵ (từ 24-01-2001 đến 11-02-2002) chấm đứt, kế đến năm Nhâm Ngọ thuộc hành Mộc nhằm ngày Thứ Ba nối tiếp từ 12-02-2002 đến 31-01-2003. Năm Nhâm Ngọ là Dương có mạng Dương Liễu Mộc và có can Nhâm thuộc Thủy và chi Ngọ thuộc Hỏa. Căn cứ theo luật thuận hạp hay khắc kỵ của ngũ hành, thì năm này Can khắc Chi tức Trời khắc Đất. Bởi vì : Mạng Thủy khắc mạng Hỏa .Do vậy, năm này trái ngược với năm Tân Tỵ vừa qua là Đất khắc Trời, cho nên năm nay hay người có tuổi này tổng quát sẽ gặp khó khăn hơn năm Tân Tỵ vừa qua. Được biết năm Ngọ vừa qua là năm Canh Ngọ thuộc hành Thổ, nhằm ngày thứ bảy, 27-01-1990 đến 14-02-1991.
Căn cứ theo Niên Lịch Cổ Truyền Á Đông xuất hiện được minh định quảng bá từ năm thứ 61 của đời Hoàng Đế bên Tàu, bắt đầu năm 2637 trước Công Nguyên, cho nên chúng ta lấy 2637 + 2002 = 4639, rồi đem chia cho 60 thì có kết quả Vận Niên Lục Giáp thứ 78 bắt đầu từ năm 1984 cho đến năm 2043. Do vậy, năm Nhâm Ngọ 2002 này là năm thứ 19 của Vận Niên Lục Giáp 78 và năm Ngọ kế tiếp sẽ là năm Giáp Ngọ thuộc hành Kim, nhằm ngày thứ sáu tính từ 31-01-2014 đến 18-02-2015.
Trong thành ngữ, tục ngữ người ta thường nói, xin trích dẫn như sau : Như Ngựa bất kham - Quất Ngựa truy phong - Thẳng như ruột Ngựa - Tàn che Ngựa cỡi - Ngựa bốn chân còn vấp - Ngựa chạy đường dài - Ngựa chạy về ngược - Ngựa háu đá - Ngựa gầy hỗ mặt người nuôi - Ngựa hỗn quen đường - Ngựa qua cửa sổ - Ngựa quen đường cũ - Ngựa xe như nước - Ngựa kéo Voi giày - Tái ông thất Mã (*) - Thiên binh vạn Mã (*).v.v. (Thành Ngữ). (*) Ngựa tức Ngọ hay Mã có ý nghĩa giống nhau.
Một con Ngựa đau cả tàu không ăn cỏ - Ngựa chạy có bầy, chim bay có bạn - Đường dài mới biết Ngựa hay - Ngựa lẻ tẻ cũng đến bến giang - Ngựa hồ thương gió heo may.v.v. (Tục Ngữ).
Ngoài ra, con Ngựa là loại thú vật xưa kia ở trong rừng và đã được loài người thuần hóa để trở thành gia súc như những thú vật trong nhà như : Chó, Mèo, Gà, Vịt v.v. Để rồi, con ngựa được giúp đỡ con người trong mọi công việc như di chuyển, chuyên chở cho đến chiến tranh v.v. chúng nó có những màu như sau :
Ngựa bạch = Ngựa có lông màu trắng.
Ngựa Kim = Ngựa có lông màu trắng mốc.
Ngựa Kim Than = Ngựa có lông trắng ít, đen nhiều.
Ngựa Kim Lem = Ngựa có lông trắng và đen pha trộn lẫn nhau.
Ngựa Kim Lân = Ngựa có lông đốm trắng đen.
Ngựa Bích = Ngựa có lông ngả màu xanh.
Ngựa Ô = Ngựa có lông màu đen tuyền.
Ngựa Tía = Ngựa có lông ngả màu đỏ tía.
Ngựa Hồng = Ngựa có lông ngả màu ửng hồng.
Ngựa Đạm = Ngựa có lông ngả màu vàng lợt.v.v.
Hơn nữa, mỗi loài ngựa có sanh hoạt riêng như sau :
Ngựa ruồi = Ngựa chạy.
Ngựa Tế = Ngựa chạy đua nước lớn.
Ngựa Kiệu = Ngựa chạy lúp xúp.
Ngựa sải = Ngựa nhảy sải.
Ngựa Sa Hoàng = Ngựa dữ, Ngựa đi quá sức.
Ngựa Bền = Ngựa chạy dai sức.
Ngựa Bở = Ngựa chạy yếu sức.
Ngựa Nục = Ngựa mập béo quá.
Ngựa Lao = Ngựa thường đau ốm mất sức.
Mặt Ngựa = Thường để chỉ những người có gương mặt dài giống như mặt ngựa...
Con Ngựa tức con Mã, cho nên có những từ ngữ như sau :
Mã Binh = Binh lính cỡi Ngựa
Mã Đề = Loại cây lớn lá, giống cái móng ngựa, thường dùng để làm vị thuốc mát.
Mã Tiên Thảo = Tức loại cỏ roi ngựa.
Thượng Mã = Lên ngựa.
Hạ Mã = Xuống ngựa.
Xa Mã = Xe ngựa.
Xa Song Mã = Xe 2 con ngựa.
Cung Mã = Cung ngựa, đồ kỵ mã.
Hành Thuyền Kỵ Mã Tam Phân Mạng = Đi thuyền, cỡi ngựa, mạng sống có ba phân, để chỉ sự nguy hiểm.
Long Mã Phụ Đồ = Ngựa rồng đội họa đồ. Vua Phục Hi nhờ đó vẽ nên Bát Quái.
Thượng Mã Phi Đệ = Chỉ người sãi ngựa mang giấy tờ đưa đi cho quan khẩn cấp.
Ngoài ra, chúng ta còn thấy các danh từ : Mã Giáp, Mã Não, Thợ Mã, Đồ Mã, Tốt Mã, Thượng Mã Phong hoặc trong dân gian thường nói như:
- Trường đồ tri Mã lực.
- Tiên trường bất cập Mã phúc...v.v.
Đặc biệt, chúng ta còn thấy những giống mang tên Ngựa, nhưng có hình dạng đặc biệt khác loài Ngựa, xin trích dẫn như sau:
Ý Con Hà Mã = L hippototame (n.m) = The hippopotamus, có thân hình lớn con như: Voi hoặc Tê Giác hay Trâu, lại hiền lành thường trầm mình dưới nước nơi sông hồ ở Phi Châu cả ngày không biết lạnh, cho nên con Hà Mã có người gọi con Trâu Nước hay Ngựa Sông chăng?.
Ý Con Hải Mã = Le cheval marin = The sea horse hoặc có người gọi con Cá Ngựa = L hippocampe = The hippocampus. Con Hải Mã thường ở vùng biển ấm, nó lội đứng như ngựa sải, thân hình nó ít thịt nhiều xương. Tuy vậy, người ta cũng bắt nó rồi đem phơi phô, rồi đốt tán nhuyễn để trị bịnh suyễn hay tráng dương bổ thận.
Ý Ở Phi Châu cũng có một giống Ngựa Rằn = Le zèbre = The zebra mình có sọc ngang.
Ở Hy Lạp thời xưa, cũng xuất hiện một giống Ngựa có đôi cánh để bay, được gọi là Phi Mã.
Đó là những loài Ngựa đặc biệt, hơn các loại Ngựa thông thường.
Trong năm Nhâm Ngọ tức là năm do con Ngựa hay con Mã cầm tinh. Vậy, chúng ta thử tìm hiểu con Ngọ như thế nào?
Ngọ tức là con Ngựa = Le cheval, đứng hạng thứ 7 của 12 con vật trong Thập Nhị Địa Chi, chúng ta cũng thường thấy những từ ngữ nói về Ngọ như sau :
Giờ Ngọ = là giờ từ 11 giờ đến đúng 13 giờ.
Đúng Ngọ = 12 giờ trưa.
Thượng Ngọ = Đầu giờ Ngọ.
Trung Ngọ = Giữa giờ Ngọ.
Mạt Ngọ = Cuối giờ Ngọ.
Cúng Ngọ = Làm chay cúng khi mặt Trời đứng bóng giữa trưa.
Tháng Ngọ = là tháng năm của năm âm lịch. . . v.v.
Năm nay, là năm Nhâm Ngọ, có can là Nhâm cũng là năm đặc biệt, rớt đúng vào năm trong dân gian thường nói : Nam Nhâm nữ Quý để chỉ người phái Nam có tuổi Nhâm và người phái Nữ có tuổi Quý xem như tốt.
Nhưng nếu chúng ta bình tâm mà xét cho kỹ, thì không thể chấp nhận được, bởi vì con người sanh ra có : Giờ, Ngày, Tháng và Năm, với thời gian đó thường kết hợp Can và Chi. Hơn nữa, chúng ta chỉ thấy phái nam có can là Nhâm và phái nữ có can là Quý, mà kết luận như thế thì quá vội vàng. Mặc dù, can Nhâm thuộc dương và can Quý thuộc âm là thuận chiều. Ngoài ra, trong Thập Thiên Can không những chỉ có can Nhâm là dương, mà còn có các can dương nữa là : Giáp, Bính, Mậu, Canh. Do vậy, trong Thập Thiên Can có năm can dương đã dẫn và năm can âm là : Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý. Về hành trong Thập Thiên Can chúng nó cũng đi từng cặp với nhau, xin trích dẫn nhắc lại như sau :
Thiên Can Hành Gì?
Giáp, Ất Mộc
Bính, Đinh Hỏa
Mậu, Kỷ Thổ
Canh, Tân Kim
Nhâm, Quý Thủy
Do vậy, cặp can Nhâm, Quý chỉ là một trong năm cặp của Thiên Can mà thôi.
Hơn nữa, mỗi tuổi phải kết hợp Can và Chi, ví như năm Nhâm Ngọ là năm được kết hợp can Nhâm và chi Ngọ (nên nhớ rằng can dương kết hợp với chi dương và can âm kết hợp với chi âm).
Muốn biết năm tuổi nào đó tốt hay xấu, thì chúng ta phải phân tách về ngũ hành xem coi có thuận hạp hay khắc kỵ không? Có như thế mới chánh xác và trung thực của vấn đề.
Vậy tuổi phái nam có can Nhâm gặp chi Ngọ tốt hay xấu?
Căn cứ theo luật thuận hạp hay khắc kỵ của Ngũ Hành thì :Thủy khắc Hỏacho nên can Nhâm thuộc hành Thủy khắc kỵ chi Ngọ thuộc hành Hỏa (nếu cần xem lại trang 312 quyển thượng). Người có tuổi Can Chi tương khắc nhau, thì xem như tuổi Không Tốt. Do vậy, chúng ta kết luận rằng dù người phái nam có can Nhâm, mà kết hợp với chi không thuận hạp ngũ hành để đưa đến tương sanh, thì vẫn là tuổi Xấu như thường. Nếu người phái nam có can Nhâm hay can dương nào khác được kết hợp với chi được tương sanh ngũ hành, thì xem như tuổi đó sẽ là tuổi Tốt, ví như tuổi Nhâm Dần. Bởi vì, chi Dần thuộc Mộc thì được tương sanh (Thủy sanh Mộc).
Từ đó, chúng ta kết luận rằng : Nam Nhâm, Nữ Quý chỉ có ảnh hưởng đúng về Dương Âm mà thôi.
Đối với tuổi Quý dành cho phái nữ, chúng ta cũng dùng phương thức trên để phân tách một cách khoa học chánh xác như tuổi Nhâm dành cho phái nam vậy.
Viết đến đây, tôi cũng nhớ có người nói : Người nào có tuổi can Mậu thì tương lai có đời sống nghèo nàn, vì chữ Mậu = Không. hoặc là : Người nào có tuổi can Canhthì tương lai có đời sống đầy lo lắng và cô độc, vì chữ Canh Cô mà ra.
Đó là, sự đón mò thiếu khoa học, có tánh cách dị đoan không thể chấp nhận được. Nếu những người phái nam có can Quý hay can âm và những người phái nữ có can Nhâm hay can dương, thì những người đó bị dương, âm trái ngược nhau vì không thuận chiều, thì đưa đến đời sống trong tương lai không thể tốt hơn những người có can thuận chiều được.
Trong các năm : Kỷ Mão (1999) - Canh Thìn (2000) và Tân Tỵ (2001) chúng ta đã tìm hiểu ảnh hưởng như thế nào? Vậy, chúng ta cứ căn cứ phương pháp đã dẫn ở trước để tìm hiểu ảnh hưởng các năm kế tiếp và nhân đây, nói về Tết năm con Ngựa cầm tinh, xin trích dẫn một trong những món ăn liên quan đến con Ngựa, trong dịp Bà Từ Hi Thái Hậu tức Tây Thi Thái Hậu, đời nhà Thanh Trung Hoa, khoản đãi phái đoàn sứ thần thuộc các quốc gia Tây Phương, nhân dịp mừng Xuân Canh Tý 1874. Tiệc được chuẩn bị 11 tháng 6 ngày trước, có 1750 người phục vụ, tốn kém 98 triệu hoa viên thời bấy giờ tương đương 374 ngàn lượng vàng ròng, gồm 400 thực khách và kéo dài suốt 7 ngày đêm bắt đầu giờ giao thừa Tết nguyên đán năm Canh Tý.
Đó là món Phương Chi Thảo như sau : Phương Chi Thảo là loại cỏ Phương Chi. Tương truyền Hoàng Đế Khang Hy nhà Thanh khi còn sanh tiền rất háo sắc, nhưng có tài y thuật cao cường. Vì vậy, dù có hằng trăm cung tần mỹ nữ cung phụng, nhà vua vẫn khỏe mạnh, vì tự bồi dưỡng cường lực bằng dược chất. Nhưng, lúc tuổi già vua mắc phải chứng bịnh khan háo trong ngũ tạng mà tự mình không thể chữa được, bao nhiêu ngự y đại tài của triều đình cũng bó tay, vua phải bố cáo tìm danh y, thần dược trong dân gian. Ngày nọ, có một dị nhân xin yết kiến rồi móc trong người ra một bó cỏ rất lạ, rễ xanh, lá dài như lá hẹ nhưng màu đỏ tía, ngọn lại trắng. Vua biết là cỏ quí nên hỏi, dị nhân trả lời. Đó là cỏ Phương Chi mọc trên đỉnh Thái Hàng Sơn hướng về mặt trời, đặc biệt chỉ mọc một lần trên một tảng đá duy nhứt cao và chênh vênh vào dịp Trung Thu năm nhuần, cỏ này chỉ sống trong khoảng 30 đến 45 ngày, lúc gặp ngọn gió bấc đầu mùa thì lập tức bị khô héo. Việc hái cỏ cũng rất công phu, phải dắt theo một con Ngựa toàn bạch lên đỉnh núi cao trước một ngày, đợi khi mặt trời vừa mọc lên, mới đem Ngựa tới phiến đá để con Ngựa ăn cỏ Phương Chi, khi Ngựa vừa ăn xong, phải lập tức chém đầu và mổ bụng để lấy bao tử mang về chế thuốc phơi khô. Cỏ Phương Chi khi ăn vào làm cơ thể mát mẻ, đồng thời trị tuyệt các bịnh trầm kha hoặc hiểm nghèo. Trong đại tiệc do Từ Hi Thái Hậu khoản đãi, Phương Chi Thảo được nấu chung với Long Tu (Râu Rồng), thực khách ăn xong cảm thấy tinh thần vô cùng sảng khoái, cả tháng sau không khát nước cũng không mệt mỏi. (tài liệu này do Mọt Sách sưu tầm và tường thuật).
Trước khi tạm kết thúc bài này, tôi xin trích dẫn thời gian 10 năm những năm con Ngựa vừa qua và sắp tới có Hành như thế nào? để cống hiến quý bà con đồng hương nhàn lãm hoặc xem mình có phải sanh đúng năm Ngọ hay không như dưới đây :
Tên Năm Thời Gian Hành Gì?
Bính Ngọ 25-01-1906 đến 12-02- Thủy
Mậu Ngọ 11-02-1918 đến 31-01-1919 Hỏa
Canh Ngọ 30-01-1930 đến 16-02-1931 Thổ
Nhâm Ngọ 15-02-1942 đến 04-02-1943 Mộc
Giáp Ngọ 03-02-1954 đến 23-01-1955 Kim
Bính Ngọ 21-01-1966 đến 08-02-1967 Thủy
Mậu Ngọ 07-02-1978 đến 27-01-1979 Hỏa
Canh Ngọ 27-01-1990 đến 14-02-1991 Thổ
Nhâm Ngọ 12-02-2002 đến 31-01-2003 Mộc
Giáp Ngọ 31-01-2014 đến 18-02-2015 Kim
Xuyên qua thời gian năm Ngọ ở trên, chúng ta thấy cứ 12 năm thì năm Ngọ trở lại, nhưng can khác nhau và cứ 60 năm thì năm Ngọ trở lại can giống nhau.
Và kính chúc quý bà con đồng hương năm mới mọi nhà được An Lạc cùng Đắc Thành tất cả.
Nguyễn-Phú-Thứ
Lyon (Pháp Quốc)
(Trích dẫn tác phẩm Tìm Hiểu Tử Vi Đẩu Số Và Địa Lý, quyển hạ của Gs Nguyễn-Phú -Thứ)
Sau năm Tân Tỵ (từ 24-01-2001 đến 11-02-2002) chấm đứt, kế đến năm Nhâm Ngọ thuộc hành Mộc nhằm ngày Thứ Ba nối tiếp từ 12-02-2002 đến 31-01-2003. Năm Nhâm Ngọ là Dương có mạng Dương Liễu Mộc và có can Nhâm thuộc Thủy và chi Ngọ thuộc Hỏa. Căn cứ theo luật thuận hạp hay khắc kỵ của ngũ hành, thì năm này Can khắc Chi tức Trời khắc Đất. Bởi vì : Mạng Thủy khắc mạng Hỏa .Do vậy, năm này trái ngược với năm Tân Tỵ vừa qua là Đất khắc Trời, cho nên năm nay hay người có tuổi này tổng quát sẽ gặp khó khăn hơn năm Tân Tỵ vừa qua. Được biết năm Ngọ vừa qua là năm Canh Ngọ thuộc hành Thổ, nhằm ngày thứ bảy, 27-01-1990 đến 14-02-1991.
Căn cứ theo Niên Lịch Cổ Truyền Á Đông xuất hiện được minh định quảng bá từ năm thứ 61 của đời Hoàng Đế bên Tàu, bắt đầu năm 2637 trước Công Nguyên, cho nên chúng ta lấy 2637 + 2002 = 4639, rồi đem chia cho 60 thì có kết quả Vận Niên Lục Giáp thứ 78 bắt đầu từ năm 1984 cho đến năm 2043. Do vậy, năm Nhâm Ngọ 2002 này là năm thứ 19 của Vận Niên Lục Giáp 78 và năm Ngọ kế tiếp sẽ là năm Giáp Ngọ thuộc hành Kim, nhằm ngày thứ sáu tính từ 31-01-2014 đến 18-02-2015.
Trong thành ngữ, tục ngữ người ta thường nói, xin trích dẫn như sau : Như Ngựa bất kham - Quất Ngựa truy phong - Thẳng như ruột Ngựa - Tàn che Ngựa cỡi - Ngựa bốn chân còn vấp - Ngựa chạy đường dài - Ngựa chạy về ngược - Ngựa háu đá - Ngựa gầy hỗ mặt người nuôi - Ngựa hỗn quen đường - Ngựa qua cửa sổ - Ngựa quen đường cũ - Ngựa xe như nước - Ngựa kéo Voi giày - Tái ông thất Mã (*) - Thiên binh vạn Mã (*).v.v. (Thành Ngữ). (*) Ngựa tức Ngọ hay Mã có ý nghĩa giống nhau.
Một con Ngựa đau cả tàu không ăn cỏ - Ngựa chạy có bầy, chim bay có bạn - Đường dài mới biết Ngựa hay - Ngựa lẻ tẻ cũng đến bến giang - Ngựa hồ thương gió heo may.v.v. (Tục Ngữ).
Ngoài ra, con Ngựa là loại thú vật xưa kia ở trong rừng và đã được loài người thuần hóa để trở thành gia súc như những thú vật trong nhà như : Chó, Mèo, Gà, Vịt v.v. Để rồi, con ngựa được giúp đỡ con người trong mọi công việc như di chuyển, chuyên chở cho đến chiến tranh v.v. chúng nó có những màu như sau :
Ngựa bạch = Ngựa có lông màu trắng.
Ngựa Kim = Ngựa có lông màu trắng mốc.
Ngựa Kim Than = Ngựa có lông trắng ít, đen nhiều.
Ngựa Kim Lem = Ngựa có lông trắng và đen pha trộn lẫn nhau.
Ngựa Kim Lân = Ngựa có lông đốm trắng đen.
Ngựa Bích = Ngựa có lông ngả màu xanh.
Ngựa Ô = Ngựa có lông màu đen tuyền.
Ngựa Tía = Ngựa có lông ngả màu đỏ tía.
Ngựa Hồng = Ngựa có lông ngả màu ửng hồng.
Ngựa Đạm = Ngựa có lông ngả màu vàng lợt.v.v.
Hơn nữa, mỗi loài ngựa có sanh hoạt riêng như sau :
Ngựa ruồi = Ngựa chạy.
Ngựa Tế = Ngựa chạy đua nước lớn.
Ngựa Kiệu = Ngựa chạy lúp xúp.
Ngựa sải = Ngựa nhảy sải.
Ngựa Sa Hoàng = Ngựa dữ, Ngựa đi quá sức.
Ngựa Bền = Ngựa chạy dai sức.
Ngựa Bở = Ngựa chạy yếu sức.
Ngựa Nục = Ngựa mập béo quá.
Ngựa Lao = Ngựa thường đau ốm mất sức.
Mặt Ngựa = Thường để chỉ những người có gương mặt dài giống như mặt ngựa...
Con Ngựa tức con Mã, cho nên có những từ ngữ như sau :
Mã Binh = Binh lính cỡi Ngựa
Mã Đề = Loại cây lớn lá, giống cái móng ngựa, thường dùng để làm vị thuốc mát.
Mã Tiên Thảo = Tức loại cỏ roi ngựa.
Thượng Mã = Lên ngựa.
Hạ Mã = Xuống ngựa.
Xa Mã = Xe ngựa.
Xa Song Mã = Xe 2 con ngựa.
Cung Mã = Cung ngựa, đồ kỵ mã.
Hành Thuyền Kỵ Mã Tam Phân Mạng = Đi thuyền, cỡi ngựa, mạng sống có ba phân, để chỉ sự nguy hiểm.
Long Mã Phụ Đồ = Ngựa rồng đội họa đồ. Vua Phục Hi nhờ đó vẽ nên Bát Quái.
Thượng Mã Phi Đệ = Chỉ người sãi ngựa mang giấy tờ đưa đi cho quan khẩn cấp.
Ngoài ra, chúng ta còn thấy các danh từ : Mã Giáp, Mã Não, Thợ Mã, Đồ Mã, Tốt Mã, Thượng Mã Phong hoặc trong dân gian thường nói như:
- Trường đồ tri Mã lực.
- Tiên trường bất cập Mã phúc...v.v.
Đặc biệt, chúng ta còn thấy những giống mang tên Ngựa, nhưng có hình dạng đặc biệt khác loài Ngựa, xin trích dẫn như sau:
Ý Con Hà Mã = L hippototame (n.m) = The hippopotamus, có thân hình lớn con như: Voi hoặc Tê Giác hay Trâu, lại hiền lành thường trầm mình dưới nước nơi sông hồ ở Phi Châu cả ngày không biết lạnh, cho nên con Hà Mã có người gọi con Trâu Nước hay Ngựa Sông chăng?.
Ý Con Hải Mã = Le cheval marin = The sea horse hoặc có người gọi con Cá Ngựa = L hippocampe = The hippocampus. Con Hải Mã thường ở vùng biển ấm, nó lội đứng như ngựa sải, thân hình nó ít thịt nhiều xương. Tuy vậy, người ta cũng bắt nó rồi đem phơi phô, rồi đốt tán nhuyễn để trị bịnh suyễn hay tráng dương bổ thận.
Ý Ở Phi Châu cũng có một giống Ngựa Rằn = Le zèbre = The zebra mình có sọc ngang.
Ở Hy Lạp thời xưa, cũng xuất hiện một giống Ngựa có đôi cánh để bay, được gọi là Phi Mã.
Đó là những loài Ngựa đặc biệt, hơn các loại Ngựa thông thường.
Trong năm Nhâm Ngọ tức là năm do con Ngựa hay con Mã cầm tinh. Vậy, chúng ta thử tìm hiểu con Ngọ như thế nào?
Ngọ tức là con Ngựa = Le cheval, đứng hạng thứ 7 của 12 con vật trong Thập Nhị Địa Chi, chúng ta cũng thường thấy những từ ngữ nói về Ngọ như sau :
Giờ Ngọ = là giờ từ 11 giờ đến đúng 13 giờ.
Đúng Ngọ = 12 giờ trưa.
Thượng Ngọ = Đầu giờ Ngọ.
Trung Ngọ = Giữa giờ Ngọ.
Mạt Ngọ = Cuối giờ Ngọ.
Cúng Ngọ = Làm chay cúng khi mặt Trời đứng bóng giữa trưa.
Tháng Ngọ = là tháng năm của năm âm lịch. . . v.v.
Năm nay, là năm Nhâm Ngọ, có can là Nhâm cũng là năm đặc biệt, rớt đúng vào năm trong dân gian thường nói : Nam Nhâm nữ Quý để chỉ người phái Nam có tuổi Nhâm và người phái Nữ có tuổi Quý xem như tốt.
Nhưng nếu chúng ta bình tâm mà xét cho kỹ, thì không thể chấp nhận được, bởi vì con người sanh ra có : Giờ, Ngày, Tháng và Năm, với thời gian đó thường kết hợp Can và Chi. Hơn nữa, chúng ta chỉ thấy phái nam có can là Nhâm và phái nữ có can là Quý, mà kết luận như thế thì quá vội vàng. Mặc dù, can Nhâm thuộc dương và can Quý thuộc âm là thuận chiều. Ngoài ra, trong Thập Thiên Can không những chỉ có can Nhâm là dương, mà còn có các can dương nữa là : Giáp, Bính, Mậu, Canh. Do vậy, trong Thập Thiên Can có năm can dương đã dẫn và năm can âm là : Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý. Về hành trong Thập Thiên Can chúng nó cũng đi từng cặp với nhau, xin trích dẫn nhắc lại như sau :
Thiên Can Hành Gì?
Giáp, Ất Mộc
Bính, Đinh Hỏa
Mậu, Kỷ Thổ
Canh, Tân Kim
Nhâm, Quý Thủy
Do vậy, cặp can Nhâm, Quý chỉ là một trong năm cặp của Thiên Can mà thôi.
Hơn nữa, mỗi tuổi phải kết hợp Can và Chi, ví như năm Nhâm Ngọ là năm được kết hợp can Nhâm và chi Ngọ (nên nhớ rằng can dương kết hợp với chi dương và can âm kết hợp với chi âm).
Muốn biết năm tuổi nào đó tốt hay xấu, thì chúng ta phải phân tách về ngũ hành xem coi có thuận hạp hay khắc kỵ không? Có như thế mới chánh xác và trung thực của vấn đề.
Vậy tuổi phái nam có can Nhâm gặp chi Ngọ tốt hay xấu?
Căn cứ theo luật thuận hạp hay khắc kỵ của Ngũ Hành thì :Thủy khắc Hỏacho nên can Nhâm thuộc hành Thủy khắc kỵ chi Ngọ thuộc hành Hỏa (nếu cần xem lại trang 312 quyển thượng). Người có tuổi Can Chi tương khắc nhau, thì xem như tuổi Không Tốt. Do vậy, chúng ta kết luận rằng dù người phái nam có can Nhâm, mà kết hợp với chi không thuận hạp ngũ hành để đưa đến tương sanh, thì vẫn là tuổi Xấu như thường. Nếu người phái nam có can Nhâm hay can dương nào khác được kết hợp với chi được tương sanh ngũ hành, thì xem như tuổi đó sẽ là tuổi Tốt, ví như tuổi Nhâm Dần. Bởi vì, chi Dần thuộc Mộc thì được tương sanh (Thủy sanh Mộc).
Từ đó, chúng ta kết luận rằng : Nam Nhâm, Nữ Quý chỉ có ảnh hưởng đúng về Dương Âm mà thôi.
Đối với tuổi Quý dành cho phái nữ, chúng ta cũng dùng phương thức trên để phân tách một cách khoa học chánh xác như tuổi Nhâm dành cho phái nam vậy.
Viết đến đây, tôi cũng nhớ có người nói : Người nào có tuổi can Mậu thì tương lai có đời sống nghèo nàn, vì chữ Mậu = Không. hoặc là : Người nào có tuổi can Canhthì tương lai có đời sống đầy lo lắng và cô độc, vì chữ Canh Cô mà ra.
Đó là, sự đón mò thiếu khoa học, có tánh cách dị đoan không thể chấp nhận được. Nếu những người phái nam có can Quý hay can âm và những người phái nữ có can Nhâm hay can dương, thì những người đó bị dương, âm trái ngược nhau vì không thuận chiều, thì đưa đến đời sống trong tương lai không thể tốt hơn những người có can thuận chiều được.
Trong các năm : Kỷ Mão (1999) - Canh Thìn (2000) và Tân Tỵ (2001) chúng ta đã tìm hiểu ảnh hưởng như thế nào? Vậy, chúng ta cứ căn cứ phương pháp đã dẫn ở trước để tìm hiểu ảnh hưởng các năm kế tiếp và nhân đây, nói về Tết năm con Ngựa cầm tinh, xin trích dẫn một trong những món ăn liên quan đến con Ngựa, trong dịp Bà Từ Hi Thái Hậu tức Tây Thi Thái Hậu, đời nhà Thanh Trung Hoa, khoản đãi phái đoàn sứ thần thuộc các quốc gia Tây Phương, nhân dịp mừng Xuân Canh Tý 1874. Tiệc được chuẩn bị 11 tháng 6 ngày trước, có 1750 người phục vụ, tốn kém 98 triệu hoa viên thời bấy giờ tương đương 374 ngàn lượng vàng ròng, gồm 400 thực khách và kéo dài suốt 7 ngày đêm bắt đầu giờ giao thừa Tết nguyên đán năm Canh Tý.
Đó là món Phương Chi Thảo như sau : Phương Chi Thảo là loại cỏ Phương Chi. Tương truyền Hoàng Đế Khang Hy nhà Thanh khi còn sanh tiền rất háo sắc, nhưng có tài y thuật cao cường. Vì vậy, dù có hằng trăm cung tần mỹ nữ cung phụng, nhà vua vẫn khỏe mạnh, vì tự bồi dưỡng cường lực bằng dược chất. Nhưng, lúc tuổi già vua mắc phải chứng bịnh khan háo trong ngũ tạng mà tự mình không thể chữa được, bao nhiêu ngự y đại tài của triều đình cũng bó tay, vua phải bố cáo tìm danh y, thần dược trong dân gian. Ngày nọ, có một dị nhân xin yết kiến rồi móc trong người ra một bó cỏ rất lạ, rễ xanh, lá dài như lá hẹ nhưng màu đỏ tía, ngọn lại trắng. Vua biết là cỏ quí nên hỏi, dị nhân trả lời. Đó là cỏ Phương Chi mọc trên đỉnh Thái Hàng Sơn hướng về mặt trời, đặc biệt chỉ mọc một lần trên một tảng đá duy nhứt cao và chênh vênh vào dịp Trung Thu năm nhuần, cỏ này chỉ sống trong khoảng 30 đến 45 ngày, lúc gặp ngọn gió bấc đầu mùa thì lập tức bị khô héo. Việc hái cỏ cũng rất công phu, phải dắt theo một con Ngựa toàn bạch lên đỉnh núi cao trước một ngày, đợi khi mặt trời vừa mọc lên, mới đem Ngựa tới phiến đá để con Ngựa ăn cỏ Phương Chi, khi Ngựa vừa ăn xong, phải lập tức chém đầu và mổ bụng để lấy bao tử mang về chế thuốc phơi khô. Cỏ Phương Chi khi ăn vào làm cơ thể mát mẻ, đồng thời trị tuyệt các bịnh trầm kha hoặc hiểm nghèo. Trong đại tiệc do Từ Hi Thái Hậu khoản đãi, Phương Chi Thảo được nấu chung với Long Tu (Râu Rồng), thực khách ăn xong cảm thấy tinh thần vô cùng sảng khoái, cả tháng sau không khát nước cũng không mệt mỏi. (tài liệu này do Mọt Sách sưu tầm và tường thuật).
Trước khi tạm kết thúc bài này, tôi xin trích dẫn thời gian 10 năm những năm con Ngựa vừa qua và sắp tới có Hành như thế nào? để cống hiến quý bà con đồng hương nhàn lãm hoặc xem mình có phải sanh đúng năm Ngọ hay không như dưới đây :
Tên Năm Thời Gian Hành Gì?
Bính Ngọ 25-01-1906 đến 12-02- Thủy
Mậu Ngọ 11-02-1918 đến 31-01-1919 Hỏa
Canh Ngọ 30-01-1930 đến 16-02-1931 Thổ
Nhâm Ngọ 15-02-1942 đến 04-02-1943 Mộc
Giáp Ngọ 03-02-1954 đến 23-01-1955 Kim
Bính Ngọ 21-01-1966 đến 08-02-1967 Thủy
Mậu Ngọ 07-02-1978 đến 27-01-1979 Hỏa
Canh Ngọ 27-01-1990 đến 14-02-1991 Thổ
Nhâm Ngọ 12-02-2002 đến 31-01-2003 Mộc
Giáp Ngọ 31-01-2014 đến 18-02-2015 Kim
Xuyên qua thời gian năm Ngọ ở trên, chúng ta thấy cứ 12 năm thì năm Ngọ trở lại, nhưng can khác nhau và cứ 60 năm thì năm Ngọ trở lại can giống nhau.
Và kính chúc quý bà con đồng hương năm mới mọi nhà được An Lạc cùng Đắc Thành tất cả.
Nguyễn-Phú-Thứ
Lyon (Pháp Quốc)
Gửi ý kiến của bạn