Những Bài Sáng-tác Năm Canh-thìn (1940) - Phần 11

01 Tháng Bảy 200212:00 SA(Xem: 42849)
Những Bài Sáng-tác Năm Canh-thìn (1940) - Phần 11

SA-ĐÉC
(Rằm tháng tư năm Canh-Thìn)

Nhìn cuộc thế bộn bề sóng dậy,
Cửa thiền môn còn hỡi khóa then.
Nương xứ xa tạm viết với đèn,
Tỏ tâm sự của người liễu Đạo.
Sách có chữ thâm ân dục báo,
Phận làm người hiếu thảo noi gương.
Ấy chẳng qua là đạo luân thường,
Chớ Phật Thích lìa quê ngàn dậm.
Non tuyết san rú rừng thâm thẩm,
Đem thân phàm tầm đạo siêu sanh.
Đến ngày nay còn rạng lấy danh,

Khắp bốn biển dân lành sùng bái.
Muốn lập Đạo có câu thành bại,
Sự truân chuyên của khách thiền môn.
Khắp sáu châu nức tiếng người đồn,
Ta chịu khổ khổ cho bá tánh.
Tiếng gọi đời sông mê hãy lánh,
Chạm lợi quyền giầu có cạnh tranh.
Bước gai chông đường đủ sỏi-sành,
Đành tách gót lìa quê hương dã.
Ta cũng chẳng lấy chi buồn-bã,
Bởi sự thường của bực siêu nhơn.
Dầu gian-lao dạ sắt chẳng sờn,
Miễn sanh-chúng thông đường giải-thoát.
Cơn dông-tố mịt-mù bụi cát,
Chẳng nao lòng của đấng từ bi.
Vì Thiên-đình chưa mở hội thi,
Nên Lão phải phiêu-lưu độ chúng.
Kẻ ác đức cho rằng nói túng,
Nó đâu ngờ lòng Lão yêu đương.
Xe rồ xăng vụt chạy bải-bương,
Đent khuấn dạng tình thương náo-nức.
Khắp bá-tánh chớ nên bực-tức,
Bởi nạn tai vừa mới vấn-vương.
Chốn liên-đài bát-ngát mùi hương,
Nhờ chỗ ấy mới thi công-đức.
Dạy con cả nào đâu than cực,
Tiếng làm Thầy phải nặng đôi vai.
Việc khó-khăn lắm lúc khôi-hài,
Ấy cũng bởi thày-lay ông Tạo.
Ông nhồi quả cho người hành Đạo,
Lúc nguy-nàn thối chí cùng chăng?
Nếu bền lòng vị quả cao thăng,
Chẳng chặt dạ bỏ lăn Phật-Thánh.
Chốn Phật-đường rán trau đức-hạnh,
Phải bền lòng mới rảnh trần ai.
Chuyện cao siêu Phật-pháp còn dài,
Khó gặp chữ không không mà có.
Lúc trồng rẫy rủi nhiều sâu bọ,
Rồi ngẩn-ngơ bỏ giống hay sao?
Nấu lọc rành mới biết vàng thau,
Ai thật tánh ai người giả đạo.

Tiếng sấm-sét bên tai xốc-xáo,
Cả muôn người ngơ-ngáo hỏi-han.
Nay thân Thầy cũng đặng bình an,
Khuyên bổn-đạo đừng than lắm tiếng.
Tuy xa đường có lời luận-biện,
Bời bút thần bay luyện khắp nơi.
Ngọc nhờ lau ngọc mới rạng ngời,
Kim mải giũa kim kia mới bén.
Người làm phải như tằm trong kén,
Có muôn tơ bao bọc ấm thân.
Sách có câu
Minh đức tân dân,
Được thủ trụ huyền khai nhứt khiếu.
Ta còn thương thương trò liệu-điệu,
Chớ cũng mừng được dịp phổ-thộng.
Đắc Đạo rồi cứu vớt Tổ-tông,
Cũng như Phật xuất gia thuở trước.
Các bục Thánh châu lưu nhiều nước,
Nghèo thầy Nhan bầu nước đai cơm.
Tuy cơ-hàn mà được danh thơm,
Hơn phú-quí ngồi ôm bả lợi.
Quá sung-sướng rồi quên đạo ngỡi,
Thì khác chi loại thú rừng săng.
Vật hổ-lang đâu biết đạo hằng,
Chỉ có biết ngủ ăn ăn ngủ.
Khi đói mồi mặt mày sù-sụ,
Chạy quơ quào vật nhỏ đặng ăn.
Đến chết thây đầy lũ ruồi lằn,
Bu nút thịt của loài bạo áo.
Đạo mà biết mùi thơm bát-ngát,
Rứt bụi trần mặn lạt thây ai.
Chữ Nam-mô trì giái giữ chay,
Chay được tánh chay tâm mời quí.
Trong Đạo Phật quá nên huyền-bí,
Chỗ tâm thần tọa vị nơi thân.
Muốn cho nên khuya sớm chuyên cần,
Lòng chí nguyện sở cầu Phật Thánh.
Đuốc thiền lâm phương Đông chói ánh,
Dắt hồn người vượt khỏi sông-mê.
Dầu cho nay xa cách Sở, Tề,
Sau Thầy tớ gặp nhau Phật-cảnh.
Ước trăm họ nhẹ mình có cánh,

Đồng bay về Cựu-Lạc một-đàng.
Thì thân Thầy hết phải gian-nan,
Đâu có chịu mang câu nhạo báng.
Nói thì nói chờ ngày thấp-thoáng,
Dòm êm trời thì cứ ra tay.
Quyết chèo thoàn đến chốn Bồng-Lai,
Mới ngơi nghỉ tấm thân của Lão.
Lúc Tam-Tạng Tây phương quyết đáo,
Bị loài yêu làm bạo lắm phen.
Đức từ-bi phải lộ trrắng đen,
Lôi-Âm tự cũng đi đến chốn.
Đi dọc đường yêu tinh làm hỗn,
Thấy Đường-tăng thơm thịt muốn ăn.
Nhờ môn-đồ Bát-Giái, Sa-Tăng,
Với Đại Thánh Tề-Thiên cứu vớt.
Lòng sáu chữ nhờ không có ngớt,
Thì nạn tai cũng thoát như không.
Khó tìm cho gặp chủ-nhơn-ông,
Còn ẩn ánh nơi vòng sanh-chúng.
Ai mê tâm nghe qua không phủng,
Rán suy tầm đặng mở tánh linh.
Lòng ngộ rồi chẳng đợi nhiều kinh,
Thì cũng thấy bổn lai diện mục.
Lần thứ chót gọi lời kêu thúc,
Thầy nhắc cho bổn-đạo rõ lòng.
Chừng Ơn Trên ban được lục thông,
Thầy mới được Tây, Đông du thuyết.
Thâu cho được con long ác-nghiệt,
Thì khắp nơi mới biết mến yêu.
Chúng-sanh nên tầm quạt ba-tiêu,
Chữa hỏa-diệm nơi tâm cho tắt.
Thì đạo hạnh ngày kia mới đắc,
Chớ chứa hờn đứa dư
ích chi.
Phật tu-hành tai gác mặt lỳ,
Chịu cay đắng của người sang-sớt.
Lòng sầu riêng hãy nên nguôi bớt,
Đừng thở-than bận đến lòng ta.
Để cho Thầy đi dạo ta-bà,
Đạng dạy kẻ đường xa chưa rõ.
Nay rừng buội có người mở ngõ,
Thì noi theo dấu thỏ đàng dê.

Giục vó cu nhiều nỗi thảm-thê,
Dạy sanh-chúng cho rồi mới rảnh.
Cũng hiếm kẻ nghinh-ngang cường ngạnh,
Ôi! kể sao cho hết thói đời!
Mãi say-sưa theo cuộc vui chơi,
Nên kiếp kiếp đời đời lên xuống.
Suối Tien thanh đổ ra cuồn-cuộn,
Tràn ruộng lòng gieo giống mới nên.
Kẻ vô tình chẳng có chí bền,
Phải sa ngã theo nơi mộng-ảo.
Giấc mộng vàng đặng truyền đại đạo,
Cảnh vô sanh lòng bạo mà mê.
Mùa nước tràn ngập cả điền đê,
Đến nước hạ đồng khô cỏ cháy.
Cuộc gian-nan năm qua đã thấy,
Luận việc đời cũng khúc lớn ròng.
Khi dậy thì tràn cả bờ sông,
Lúc khô hạn đi đồng khao-khát.
Biết làm sao lên lưng bạch hạc,
Bay cã trời tỏ ý từ-bi.
Khắp thế-gian con thảo phục quì,
Chầu trước bệ cha hiền Ngọc-Đế.
Gẫm vinh-nhục sanh trong thế-hệ,
Tuồng xưa kia sắp đặt đã lâu.
Phải chuyển xây trái đất một bầu,
Đạng lừa-lọc con Tiên cháu Phật.
Gồm một nơi sửa-sang tiêm-tất,
Xử phân người vùng vật thưởng phong.
Cho dương-trần rõ luật Thiên-công,
Có Địa ngục Thiên-đường hay chẳng.
Các chúng-sanh nghe rồi yên-lặng,
Suy cho tường rồi sẽ biện minh.
Cơn vui tai từ tạ Thiên-Đình,
Cho phép Lão tố trần đôi lẽ.
Lời Thầy dạy thật là cặn-kẽ,
Bao nhiêu tình bác-ái góp tom.
Trông bá gia tìm đạo quá mòn,
Thôi giã thế ước-mong đời thạnh.

NAM-MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT

Sa-Đéc, đêm rằm tháng 4 Canh-Thìn (Đức Thầy viết bài nầy trước mặt một số đông người, trong đó có vài phần tử muốn thử coi, sau khi bị dời khỏi quê-quán Ngài còn đủ tinh-thần chăng).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn