Đtb 59: 25 Năm Sau, Truyền Thông Mỹ Vẫn Bóp Méo Chiến Tranh Việt Nam

06 Tháng Chín 200212:00 SA(Xem: 13521)
Đtb 59: 25 Năm Sau, Truyền Thông Mỹ Vẫn Bóp Méo Chiến Tranh Việt Nam
Kẻ nào không thể nhớ dĩ vãng
bị phạt dựng lại quá khứ
(George Santayana)

Từ trên hai thập niên nay, mỗi khi tháng tư trở lại, thì giới truyền thông Hoa kỳ, khối diaspora Việt và chính phủ Hànội đều đồng thanh nhắc đến cuộc chiến VN với những nhận xét khác biệt và không thay đổi. Năm 2000 đánh dấu kỷ niệm thứ 25 ngày Miền Nam thất thủ, vì thế khơi lại - gay gắt hơn lúc nào hết - vết thương của quá khứ. Các đài truyền hình trên thế giới, nhân dịp này, cho chiếu lại các phim thương mãi và giả tưởng Deer Hunter, Platoon, Apocalypse Now, Full Metal Jacket...Ngoài ra, một số tài liệu gọi là “quân sử” cũng được họ xử dụng để bình phẩm về 15 năm thảm kịch ở Đông Dương,từ 1961 đến 1975, gây thiệt mạng cho 58.000 lính Mỹ và trên 3 triệu người Việt.

Nhà cầm quyền Bắc Việt dựng ra Mặt trận Giải phóng Miền Nam ngày 20.12.1960, lối sáu tuần lễ sau khi John F. Kennedy đắc cử Tổng thống. Qua năm sau, các lực lượng đặïc biệt Hoa kỳ tham chiến. Và sau đó, cuối thập niên 60, dưới thời Lyndon B. Johnson, chiến tranh leo thang với vụ oanh tạc Miền Bắc và Hànội. Tiếp theo là kế hoạch Richard Nixon “Việt nam hóa “ chiến tranh, Hiệp ước Paris và bi kịch Miền Nam sụp đổ ngày 30.4.1975.

Chiến tranh Việt Nam là đề tài được Hollywood khai thác lâu nhứt trong lịch sử truyền hình Hoa kỳ. Gần đây, tạp chí Journal of Broadcasting có đăng một bài khá tường tận của nhà xã hội học George Baylay nghiên cứu về phương thức của ba hệ thống ti- vi Mỹ ABC, CBS và NBC trình bày cuộc chiến này từ 1965 cho đến 1970. Theo ông, gần phân nửa tài liệu chiến tranh liên hệ đến hoạt động của bộ binh và không lực trên chiến trường ; lối 12% gồm có các bản văn tuyên bố của chính quyền Hoa Thịnh Đốn và Sàigòn; và sau hết, 3% dành cho tin tức lấy từ đối phương Bắc Việt. Ảnh hưởng của chiến tranh đối với quần chúng Mỹ và những vụ đi bộ cổ võ cho hòa bình, dân chúng xuống đường, sinh viên biểu tình..v..v.. của phong trào phản chiến tại Hoa kỳ được trình bày giới hạn, với tài liệu phát xuất phần lớn từ Ngũõ Giác Đài. Chỉ trong năm 1971, chi phí dể hình thành kho “ sử liệu” loại này lên đến gần 200 triệu mỹ kim.

Cuộc chiến VN qua lăng kính của Bộ Quốc phòng và cánh phản chiến Mỹ.

Trong bộ phim tài liệu The Selling of the Pentagon, (“Làm cách nào bán Ngũ Giác Đài”) của nhà đạo diễn Peter Davis, một cựu sĩ quan ngành thông tin kể lại những cố gắng để “ đánh lạc hướng” các ký giả đến điều tra tại chổ. Thí dụ, một ê kíp CBS đến nhờ y cho tiếp xúc với vài phi công Mỹ để phỏng vấn về những vụ dội bom Bắc Việt, y chỉ cho gặp những phi công được dặn kỹ các điều không nên nói.

Để tránh trò dàn cảnh như vậy, một nhóm quay phim độc lập bắt tay, vào cuối thập niên 60, tố cáo những sai quấy cũa Quân đội viễn chinh Hoa kỳ bằng những phim tài liệu có tính cách chính trị. Năm 1969, trong Vietnam, In the Year of the Pig (“Việt Nam, Năm con Heo”), Emile de Antonio tìm cách giải thích các lý do sâu xa của chiến tranh. Với những phương pháp khảo cổ, Antonio nghiên cứu nhiều văn khố, từ thời thực dân Pháp, để chứng minh cách thức Hoa kỳ can thiệp vào Việt Nam không thể thành công. Dấu hiệu thất bại đó, nhà phim ảnh hữu danh Joseph Strick trình bày trong phim Interviews with Mỹ Lai Veterans, (“ Phỏng vấn các cựu chiến binh Mỹ Lai “), thực hiện năm 1970, kể lại hành động của Trung úy Calley và đồng đội . Một phim khác nên xem là Basic Training (1971) của Frederic Wiseman đề cập đến vấn đề huấn luyện quân nhân Hoa kỳ để đưa qua tham chiến tại Đông Dương.

Trong chủ trương tuyên truyền, phe phản chiến quảng cáo rùm beng cho cuốn phim tài liệu tập thể Winter Soldier (“ Người quân nhân mùa Đông”) trong đó một số lính Mỹ giải ngũõ “tự thú” (?!) đã phạm nhiều tội ác tại Việt Nam, nhân danh “Văn minh Tây phương.” Phim này một mặt đã giúp một cách tai hại đánh giá sai lạc ý nghĩa sự can thiệp của Hoa kỳ chống Cộïng sản Hànội và mặt khác, nêu ra nghi ngờ đáng tiếc trong tâm trạng của không ít cựu quân nhân Mỹ ( lớp thanh niên từ 20 đến 27 tuổi) về lý tưởng yêu nước của họ khi tình nguyện đầu quân trước 1975. Có một lúc cánh “bồ câu” còn đi xa hơn, họ nêu câu hỏi tại sao không truy tố trước Tòa án Hình sự Quốc tế các người chịu trách nhiệm chính trị và quân sự trong một số tội ác chống nhân loại như tàn sát dân quê, dùng bom napalm, oanh tạc thường dân, thủ tiêu tập thể trong trại giam, rải chất hóa học diệt trùng...Tháng hai 1971, 125 lính giải ngủ Hoa kỳ, ngực mang huy chương, tụ họp tại Detroit, trước ống kính của giới truyền thông để hội thão và đề cao phim Winter Soldier. Chính quyền Hoa Thịnh Đốn tẩy chay, không cử đại diện dự kiến.

Cuồn phim Winter Soldier cho công luận thấy xã hội Hoa kỳ đến giờ này chưa gột rửa nổi “hội chứng Viêt Nam”, tuy Tổng Thống George Bush đã tuyên bố lạc quan rằng chiến thắng quân sự tại Vùng Vịnh chống Irak năm 1991 đã hoàn toàn xóa bỏ mặc cảm thất trận tại Đông Dương.

Trong một phim khác mang tên Hearts and Minds (“ Tim và Óc”) , thực hiện năm 1973, đạo diễn Peter Davis thữ đào sâu những yếu tố văn hóøa nào của Hoa kỳ - ngoài các toan tính chính trị - đãõ đẩy quốc gia này mở rộng cuộc tranh chấp tại Đông Nam Á. Davis đặïc biệt nêu ra, ở hàng đầu, một số dẫn lý, sợ hãi và viện cớ có tính cách địa lý chính trị không mấy thiết thực như “ Nếu chúng ta mất Đông Dương, chúng ta sẽ mất luôn khu Thái Bình Dương và trở thành một hải đảo giữa đại dương cộïng sản.” Một số người khác cho rằng cần bảo vệ bằng mọi cách các nhu liệu chiến lược thiết yếu: “ Nếu Đông Dương thất thủ, việc cung cấp chất thiếc và tung- xít (tungsten) đến từ bán đảo Malacca sẽ không còn nữa .” Sau hết, là lý do có tính cách ý thức hệ và nhân đạo : “ Hoa kỳ can thiệp để tiếp cứu một nước nạn nhân của ngoại xâm. “

Hearts and Minds (được một giảõi thưởng Oscar của Hollywood năm 1974) cũng nhằm mục tiêu nhấn mạnh ảnh hưởng - đối với người lính chuyên nghiệp Mỹ - của cái được mệnh danh “ huyền thoại của sự trình diễn kỷ thuật, le mythe de la performance technique.” Nói cách khác, với võ khí và kỹ thuật chiến đấu tối tân, Quân đội Hoa kỳ nhận chìm kích thước trọng tội của một hành động chiến tranh. Một phi công chiến đấu Mỹ từng thản nhiên kể lại: “ Khi người ta bay với tốc độ 800cây số/ giờ, không còn thời giờ nghĩ đến chuyện khác. Không nghe ngay cã tiếng bom nổ bên ngoài. Không bao giờ thấy máu và nghe tiếng kêu la. Tôi là một chuyên viên, một kỹ thuật gia.” . Bị thôi miên bởi huyền thoại nói trên, người phi công không còn trí óc gì để đo lường hậu quả hành vi của mình và nhận thức trách nhiệm cá nhân nữa.

Peter Davis còn ghi thêm một điểm tâm lý khác : Mục phiêu biện minh cho cứu cánh. Thái độ của người lính Mỹ tại VN được sánh với một kẽ chơi football Hoa kỳ. Dù quên đi lý do chiến đấu, mọi cú đều tốt, OK, miễn sao thành công. Sau hết, sự không thông hiểu tâm lý của đối phương là một nhược điểm lớn. Tướng William Westmoreland, tổng chỉ huy quân đội viễn chinh, đã gây ngạc nhiên khi ông phát biểu : “Người phương Đông không đánh giá nặng sự sống như người Tây phương.”

Một phim phản chiến khác từng gây sôi nổi là Milestones (1975) của John Douglas và Robert Kramer, kể lại một cuộc hành trình lịch sử, địa dư và nhân bản xuyên nước Mỹ để phỏng vấn những công dân chống đối diệt chủng người Da Đỏ, nô lệ hóa sắc tộc Da Đen và đàn áp dân Việt. Vì chiến tranh đã chấm dứt, phim này nhấn mạnh nhu cầu tạo dựng một xã hội Mỹ ít bạo động hơn, cởi mở và rộng lượng .
Tháng 1O. 1983, trong khi công luận Hoa kỳ cố quên đi giặc giả, một loạt phim tài liệu xuất hiện trên truyền hình dưới tên “ Viet Nam, a televised history “, nhãi đi nhãi lại các tội ác chiến tranh, căn cứ vào những lời tường thuật sặt mùi xã hội chủ nghĩa của hai nhân chứng Nguyễn Bài và Lê Thị Tôn năm 1967 tại làng Thủy Bồ, Việt Nam. Đòn tuyên truyền cũ rích này không làm cho chính quyền Hoa kỳ thay đổi cảm nghĩ và thái độ đối với chiến tranh Việt Nam .

Ngày 11 tháng ba vừa qua, trước khi lên đường qua thăm Hànội theo lời mời của Bắc bộ phủ, Bộ trưởng Quốc phòng William Cohen tuyên bố rằng ông không có ý định tỏ lời hối tiếc về hoạt động của các lực lượng Hoa kỳ trong chiến tranh Việt Nam. Hànội thất vọng chua cay những vẫn trải thảõm đỏ để đón tiếp vị thượng khách, trong ước mong được viện trợ.

Đã đến lúc trảõ sự thật lại cho lịch sử

Một phần tư thế kỷ đã trôi qua. Hoa Thịnh Đốn vẫn bị ám ảnh bởi “ hội chứng Việt Nam” và Hậnội tiếp tục sống phập phồng trong ác mộng “ diễn biến hòa bình”. Hai căn bịnh trầm kha này - nói gì thì nói - không giúp họ hoàn toàn gột bỏ các thành kiến đối với đối phương cũ và cã hai cố gắng giải thích cuộc tranh chấp xưa theo nhãn quang riêng: Côïng sản cho rằng họ đã thắng lớn năm 1975 nhờ Mác, Lê và Hồ. Phía Hoa kỳ thì lại xem cuộc chiến tại Đông Dương chỉ là giai đoạn chuẫn bị sự sụp đổ toàn diện của xã hội chũ nghĩa mà xứ Cờ Hoa chủ trương từ đầu. Gần đây, để đánh dấu 25 năm thống nhứt đất nước, tướng về hưu Võ Nguyên Giáp ,nay trên 88 tuổi, kêu gọi thảm thiết HK giúp VN xây dựng lại. Như thế, trong hậu trường cuộc chiến Việt Nam, còn nhiều bí mật chưa được tiết lộ. Nhà cầm quyền Mỹ và Việt sẽ không được bình ổn tâm thần và hơn thế, khó thể tìm ra giãi pháp thích hợp và bền vững cho đến khi cã hai có đủ can đãm nhận và nói ra sự thật đã và đang phân cách họ.

Đến nay tại Hoa kỳ, đã có một số người liên hệ mật thiết đến chiến tranh VN và thức giả lương thiện mổ xẻ thẳng thắn vấn đề. Thí dụ, nhiều cộïng tác viên với chính quyền Mỹ trước 1975 không ngại dùng những danh từ như indecisiveness, impatience, ineffectiveness để phê bình chính sách của Kennedy và Johnson. Paul Kattenburg, cựu Chủ tịch Khối Nghiên cứu về VN, VN Task Force, kể lại: Trong phiên nhóm Hội đồng An ninh Quốc gia ngày 31.8.1963,do TT Kennedy chủ toạ, ông đã đề nghị , nhưng vô hiệu quả, Hoa kỳ rút khỏi VN “trong danh dự”. Bị mất chức tháng giêng 1964, Kattenburg nhận định chua chát như sau về Bộ Tham mưu chiến tranh của Kennedy: “There was not a single person there that know what he was talking about. They didnt know Viet Nam. They didnt know the past. They had forgotten the history. They simply didnt understand the identification of nationalism and communism. I thought, God, were walking into a major disaster.” Trong hồi ký muộn màng “ In Retrospect, cựu Bộ trưởng Quốc phòng Robert Mc Namara thú nhận rằng các “ đỉnh cao trí tuệ” của nước Cờ Hoa - trong số này tác giả được dư luận xếp vào hàng đầu! - đều mù tịt về Việt Nam được xem như một “ vùng đất lạ, terra incognita “ và họ “ không nhận diện nổi để phân biệt chủ thuyết quốc gia và chủ thuyết cọng sản.” (!). Trong phiên họp ngày 31.8.1963, tại Bộ Ngoại giao, Hoa Thịnh Đốn, khi biết tin âm mưu lật đổ TT Diệm thất bại tuần lễ trước , Phó Tổng thống Lyndon Johnson bộc trực tuyên bố : “ Chúng ta nên chấm dứt cái trò vừa la làng, vừa ăn cướp! “

Ngay từ đầu cuộc chiến, chính phủ HK và VN Cộïng hòa đều quan niệm sai lầm liên hệ đồng minh giữa hai nước. từ đó sinh ra những bất đồng dẫn đến bất hòa và sự bức tử oan uổng của Miền Nam. Thật vậy, quyền lợi của Mỹ và VN không tương quan: Miền Nam chủ trương chống Bắc Việt để tồn tại như một quốc gia dân chủ và độc lập, trong khi HK muốn dùng VNCH như con cờ thí để thực hiện quân bình chiến lược tại Á châu bằng cách ngăn Bắc Kinh bành trướng thế lực và đồng thời, chia rẽ Nga sô và Trung cộng. Hoa Thịnh Đốn bỏ rơi VNCH không luyến tiếc sau khi Nixon hội kiến với Mao năm 1972. Hoa kỳ không bao giờ chủ trương cho phép (hay giúp) Miền Nam tấn công Bắc Việt để tránh làm phật lòng Bắc kinh và Mạc tư khoa. Hoa kỳ cũng không phản ứng khi Hànội vi phạm trắng trợn Hiệp ước Bá lê sau 1973. Hoa kỳ còn ép chính phủ Nguyễn Văn Thiệu ký văn kiện này để có lý do rút quân dưới chiêu bài “ việt nam hóa chiến tranh”. Vã chăng, Hoa kỳ không coi sự thất trận của Pháp tại Điên Biện Phủ như một tai biến đối với Thế giới tự do, căn cứ vào những tài liệu ngoại giao của nguyên Đại sứ Pháp tại Sàigon Jacques de Folin .

Vì quyền lợi tương phản, Mỹ đã dành hết trách nhiệm trong cuộc chiến để dễ bề thao túng. Quyền lợi và trách nhiệm trở nên quá chênh lệch nên sự tương cẩn và tương kính không còn nữa. Hai đồng minh như “ đôi đũa lệch”. Cảnh đồng sàn dị mộng chấm dứt thê thảm.

* * *

Nạn nhân trực tiếp trong thảm kịch trên đây là gần ba triệu người Việt di cư hiện tản lạc khắp nơi trên thế giớí. Đồng thời, họ cũng là chứng nhân lịch sử mang trên thân xác và trong tâm tư mối hờn vong quốc. Khối diaspora này - dù thành công đến đâu ở hải ngoại - vẫn hướng về Đất Mẹ. Thành phần lớn tuổi - sắp giã từ cuộc đời - có trách nhiệm nói lên kịp thời , và nói lớn, cho thế giới biết những sự thật không tô điểm, không phấn son, về cuộc chiến gian khổ của Nhân dân và Quân đội Việt nam Cộng hòa vì chính nghĩa. Đúng thế, một số rất đông trong lớp người này từng nắm giữ vai trò then chốt trong các chế độ đõã qua. Họ cần nói sự thật, không phải để tự đề cao mà để vinh danh những anh hùng đã hy sinh và tuẫn tiết trong bóng tối, chống Côïng sản, Độc tài và Thực dân.

Để dựng lại nước, cần lắng nghe rất nhiều nhân chứng trung thực. Điều này hệ trọng hơn là đốt đuốc đi tìm lãnh tụ giữa chợ đời. Thật vậy, lãnh đạo là gì nếu không phải là tìm cách thấu triệt ý muốn của đại chúng và phục vụ hết lòng nhu cầu chính đáng của dân?

Nếu không nhầm mục tiêu đào sâu thêm hố hận thù thì sự thật có phép lạ nhiệm mầu: Sự thật giải thoát, Sự thật hàn gắn và Sự thật hòa giải. Và nếu biết sám hối và tránh tái phạm lổi lầm thì Dĩ vãng là một trường đời dạy nhiều bài học vô giá. Kinh nghiệm từng chứng minh : Chính trị hủy diệt nhiều hơn đơm hoa. Các thời đại chứng nhân trong lịch sử nhân loại thường tạo nên những nhà lãnh tụ xuất chúng vì họ được trui rèn trong thử thách. Trước khi chỉ huy, họ đã là nạn nhân và nhân chứng.

Năm 1975, CSVN đã thắng. Bằng võ lực, bằng đàn áp. Năm 2000, CSVN đang thua - và thua đậm - một trận chiến mới: trận chiến thu phục nhân tâm và giải quyết nạn nghèo đói, kém phát triển của dân tộc. CS xa dân , phản dân và mất dân. CS thất bại. Người công bộc xã hội chủ nghĩa thoái hóa đã biến dạng thành chủ nhân ông chễm chệ.

Vì thế, phải nói sự thật. Để giúp ý và mở mắt các lãnh tụ sắp đến của một nước Việt tiến bộ và dân chủ. Nói sự thật để hướng dẫn lớp trẻ VN, chất xám quý hóa và hy vọng cuối cùng trong kế hoạch phục hồi xứ sở. Để tránh những lổi lầm và vấp ngã của các thế hệ trước. Để xóa cái nhục chậm tiến mà Hồ Chí Minh và bè đảng trong Chính trị bộ Hànội đang phủ lên giang sơn gấm vóc Việt Nam từ trên nửa thế kỷ nay. Chúng ta không còn một chọn lựa nào khác.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn