Phần thứ tám

18 Tháng Năm 200912:00 SA(Xem: 12086)
Phần thứ tám

Máy Trời mở hội đăng khoa,

Mười ba tháng chín Trời ra một điềm.

Trời chiều mây lặng gió êm,

Giờ Thân Trời mới nổi lên rõ ràng.

Điểm hiện ba sắc tam quang,

Sắc đỏ sắc vàng lại với sắc xanh.

Một điềm ba sắc chẳng lành,

Ất Sửu tháng Tuất giờ Thân không hiền.

Một điềm ba việc đảo huyền,

Hăm bảy tháng nầy phút lại hiện ra.

Phía đông cái bàn màu vàng,

Lại thêm cái lái khó mà biết bao.

Trắng xanh vàng đỏ bốn màu,

Việc đời cận lắm khó âu bây giờ.

Rán mà tu niệm kỉnh thờ,

Tôi không có muốn ước mơ làm gì.

Hào quang mà hiện sắc vàng,

Là của Minh Hoàng Tiên Đế Thánh Vương.

Hào quang chiếu đỏ lố trương,

Đó là nước của Thiên Vương rõ ràng.

Hào quang xanh của Tần Hoàng,

Hào quang sắc trắng của Tây vậy mà.

Cho nên ngày nó chiếu ra,

Mười ba tháng chín hiện ra rõ ràng.

Nói cho già trẻ đặng tàn,

Việc đời gần chớ không xa mà chờ.

Phật Trời chiếu rõ tri cơ,

Có nghe không ép làm ngơ không nài.

Xem trong Nam quốc gái trai,

Không kiêng Tông Tổ theo loài khuyển ngưu.

Giận nhau kết oán gây thù,

Nói xiên nói xéo theo loài ngưu lang,

Khoe mình tài trí đa đoan,

Không kiêng Tinh tú chê sang Ngũ hành.

Nói rằng loài quỉ xuân xanh,

Cho nên Thần Nữ theo hành hãi kinh.

Làm cho gia quyến bất bình,

Nhỏ không nhịn lớn tại mình ngỗ ngang.

Cõi trần mà đặng bình an,

Nhờ đâu mà lại chê hàng Ngũ Vương.

Hóa sanh vạn vật nuôi mình,

Cũng là trong hội Ngũ Vương vậy mà.

Năm vị con của Ngọc Hoàng,

Cho nên cõi thế coi mà năm cung.

Đại Giang là Liễu Lục Cung,

Coi về cõi nước chuyển luân cho trần.

Đại Lâm là Mộc Tinh Quân,

Coi theo thảo mộc vạn dân điều nhờ.

Đại Địa là vị Thổ Quan,

Coi về sở đất cho trần hạ đây.

Vạn dân gia đạo an hòa,

Hoặc là tử táng cũng là Thổ Quan.

Hỏa Tinh là vị lửa hồng,

Làm cho chín vật được trần độ thân.

Kim Tinh là ngọc báu châu,

Có diêm có mễ mà nuôi cõi trần.

Năm vị vốn thiệt năm Thần,

Chẳng thiếu nợ trần sao lại réo kêu.

Bởi cõi trần hạ chớ trêu,

Réo kêu thì tới coi rày làm sao.

Thấy đời tôi lại ngán ngao,

Rủa thôi rất độc lẽ nào dám dung.

Rủa kêu Cố Hỉ thượng cung,

Bà Hỏa, Bà Thủy lại kêu Thánh Thần.

Năm Non bảy Núi Bà Hồng,

Ôn Hoàng Dịch Lệ lại kêu bảy Bà.

Lại kêu Tinh tú vậy mà,

Cửu Phẩm Lịnh Bà mười phẩm cung Cô.

Rủa kêu khắp hết Thần linh,

Lại chê Thần Thánh chẳng linh chút nào.

Cho nên mười chính cõi vào,

Trần gian chớ trách hỗn hào đừng than.

Cũng đừng ỷ sắc nghinh ngang,

Thánh Thần không phải là hàng tay sai.

Nói cho thiên hạ gái trái,

Từ đây biết tới chẳng sai bớ trần.

Nói cho mà giữ lấy thân,

Đông Tây Nam Bắc mười phần còn hai.

Cửa Trời bốn phía mở khai,

Trách lòng bá tánh dạy hoài không tin.

Không truyền chê Phật chẳng linh,

Truyền rao bá tánh tại sao không vì ?

Xét trong thiên hạ vậy thì,

Hùng hào sa ngục tiếng đời đồn xa.

Người hiền thỉ ở trong gia,

Quê mùa nào biết tây tà chi đâu.

Hùng hào thông thạo quận châu,

Mả tà cai đội ngục nào cũng thông.

Thấy vậy mà não mà nồng,

Gẫm trong thiên hạ như chim trong lồng.

Cớ sao chẳng xét lấy thân ?

Cứ lo bẻ nạn chống Thần chống Tiên.

Cho nên nhiều kẻ lụy liên,

Phật Trời thấy vậy nào yên trong trong lòng.

Cho hàng chư sĩ Quan Âm,

Giáo người trần hạ kẻo lầm Thần Tiên.

Ở sao chẳng biết làm hiền ?

Cứ lo tranh đấu hết tiền mới thôi.

Thấy ai đói khó cúc côi,

Chẳng thương thì chớ biếm nay đoạn trường.

Sang giàu như ngựa buông cương,

Bần y sĩ tiện như chuông đền vàng.

Chữ rằng bần phú khó toan,

Xả thân cầu Đạo nào màng công danh.

Sang giàu mà chẳng làm lành,

Sao bằng tích đức để dành ngày sau.

Khó nghèo tích đức như đèn,

Sang giàu hung ác như kèn bi ai.

Xuân hồi thì hạ mới lai,

Thu qua đông lại nào sai đâu là.

Bấy giờ khác thể vậy mà,

Bốn mùa tám tiết vậy mà đổi xoay.

Thuở nay đông chót xuống đông,

Bây giờ xuân chót đông hầu lạ thay.

Từ đây Tuất Hợi tới đây,

Phật Trời xoay đổi đông tây khác mùa.

Giáp Ất chưa biết tới chùa,

Bính Đinh thời mới biết chùa Đế Vương.

Mồ Kỷ tam cõi đăng đàng,

Canh Tân thì mới hiệp đàng phân ngôi.

Nhâm Quí chư Phật Ta bà,

Nhơn vật thiên hạ nhà nhà ấm no.

Thương thay dạy nhỏ dạy to,

Dạy hơn dạy thiệt sao dân không dò ?

Cứ lo chưởi rủa đôi co,

Không biết niệm Phật mà lo cứu mình.

Có rủa kêu réo Thần linh,

Hễ kêu thì tới trọng khinh mặc tình.

Linh Thần là vị Thần Quang,

Thượng động Cố Hỉ con vua Ngọc Hoàng.

Bảy là bảy phẩm Nương Nương,

Năm Ông vốn thiệt Phật Vương cõi trần.

Năm non bảy núi chư Thần,

Thủy Long một cõi Long cung giang hà.

Chúa sứ là quân vậy mà,

Cửu phẩm lịnh Bà vốn thiệt cửu cung.

Ôn Hoàng Dịch lệ rất hung,

Đại Càng Nam Hải Quốc Gia cửu trùng.

Nói cho thiên hạ hay cùng,

Réo kêu thì tới khó dung cho trần.

Phật biểu tôi giáo nhơn dân,

Khuyên trong già trẻ gái trai khá từ.

Nếu mà rủa nữa hư thân,

Rủa người khác thể vun phân cho người.

Dầu ai làm quấy thì cười,

Khuyên người sửa lại chớ đừng rủa chi.

Chưởi rủa mà có ích gì ?

Chưởi thời mang họa rủa thì mang tai.

Quan Công nào phải tay sai,

Cho nên cõi thế lại sai đến Ngài.

Bất kỳ già trẻ gái trai,

Giận nhau thì lại kêu mà Quan Công.

Nói rằng Quan Đế chẳng linh,

Vặn hầu bẻ họng nó đi cho rồi.

Quan Công hiển Thánh về Trời,

Có đâu ở thế cho trần hạ sai.

Thấy vậy tôi lại phiền hoài,

Quan Công không phải thiếu tiền dị đoan.

Mấy đứa hò hét nghinh ngang,

Hay cho Quan Đế đàn tràng dữ a.

Lại sai Thái Tử Na Tra,

Ngụy Trưng Thần Tướng chầu ba cõi rày.

Rao truyền khắp hết Đông Tây,

Bốn phương Thần Thánh khó mà dung cho.

Nói cho mà giữ mà lo,

Đừng quen thói cũ mà bò ngêu ngao.

Phải dò lòng biển cạn sâu,

Lên non mới biết non là bao cao.

Hễ là cậu thủy tri ngư,

Cận sơn tri điễu, cận lâm biết rừng.

Ngó lên mây bạc chín từng,

Hai đàng tội phước nửa mừng nửa than.

Thân tôi giấc ngủ nào an,

Thương đời trần hạ thác oan mà sầu.

Bởi chân chẳng biết cạn sâu,

Cho nên mắc phải vào nơi thập sầu.

Chết đâm chết chém rơi đầu,

Là người trộm cướp nào mà trách ai.

Chết mà da thịt không phai,

Là kêu Thần Thánh mà sai bắt người.

Chết mà còn nói còn cười,

Là khi trong cõi Ngũ Hành chẳng linh.

Chết mà mê sảng trong mình,

Khinh khi Thất Tổ của mình chẳng linh.

Chết mà lo sợ hải kinh,

Là khi Trời Phật nên mình thác oan.

Chết mà chẳng thấy trối than,

Là kêu Ôn Dịch nên mang khốn nghèo

Chết mà trôi nổi như bèo,

Ỷ giàu tổn đức phạt rày thảm thay.

Chết mà bất cập tri cơ,

Tại là háo sắc ước mơ má hồng.

Chết mà thân thể xể xài,

Tại là lấy vợ giết chồng người ta.

Chết mà thân thể chẳng hòa,

Tại mình ác đức chết mà treo thây.

Thấy đời mà lại sầu tây,

Xin người dương thế phải suy lấy đời.

Cũng đừng khi Phật ngạo Trời,

Cũng đừng khi dễ vậy mà Tổ Tông.

Cũng đừng chưởi gió mắng dông,

Cũng đừng khi dễ Thánh Thần chẳng linh.

Cũng đừng chọc gái tốt xinh,

Cũng đừng rủa sã mà thân chẳng toàn.

Cải ác tùng thiện thời an,

Dầu cho có mắc tai nàn cũng qua.

Cuộc đời khó nỗi xét ra,

Còn nhiều cách thảm còn xa bớ trần.

Lớp thời hành bịnh trên không,

Lớp thời thủy lụt, lớp lôi ra đồng.

Lớp thời đi đạp gai chông,

Lớp thời cỏ cắt châu thân chẳng lành.

Lớp thời ong kiến cắn mình,

Lớp thời ma quỉ hành hình ốm đau.

Lớp thời u nhọt rất giàu,

Chết thiệt trăm đàn mau rất nên mau.

Rán mà tu niệm giồi trau,

Thời có Trời Phật mau mau độ mình.

Nếu còn quen tánh bất minh,

Phật Trời Thần Thánh đâu dung bất bình.

Cứ lo nhơn đức thời hơn,

Cầu Trời khẩn Phật độ cơn hiểm nghèo.

Nghinh ngang như thể bầu đèo,

Có ngày rụng cuống mà trông nỗi gì ?

Nói cho già trẻ xét suy,

Người tu nào có ai bi bao giờ.

Ác nhơn như túng nước cờ,

Phải suy phải xét tri cơ bớ trần.

Chữ rằng họa phước hai phần,

Hiền từ gặp phước họa lần lánh xa.

Làm ác hoạn họa tại gia,

Thánh Thần Trời Phật đâu tha gian tà.

Thánh Thần cứu kẻ hiền từ,

Cứu kẻ niệm Phật cứu người hiếu trung.

Mấy đứa làm dữ làm hung,

Phật Trời Thần Thánh có dung bao giờ.

Đừng thấy còn ruộng mà mơ,

Tới chừng rốt việc như tơ bị vày.

Phật Trời Thần Thánh dạy rày,

Không nghe lời dạy khó thay bớ trần.

Thân nay cực nhọc nào cần,

Cám thương bá tánh muôn phần lao đao.

Chuyện đời khó dạy biết bao,

Âm dương lộn lạo tổn hao thế trần.

Bởi trần lỗi quá muôn phần,

Cho nên lập hội Long Vân chọn người.

Hiền từ thời đặng thảnh thơi,

Nghinh ngang khó trốn lưới Trời bớ dân.

Lưới hồng bủa khắp cõi trần,

Chuyển luân bát quái còn trông nỗi gì ?

Hạ ngươn sau chót xét suy,

Sự vong nào có khác chi sự tồn.

Chết thời mất xác còn hồn,

Chí công có Phật chí Tôn rước về.

Ác nhơn quỉ sứ dựa kề,

Giam vào Thập Điện khảo tra nhiều bề.

Chẳng khác trên cõi trần nê,

Có tội hành phạt mãn tha trở về.

Dương trần con cháu bỏ bê,

Cho nên đói khát nhiều bề thảm thương.

Linh hồn quỉ trách gia nương,

Mới đem con cháu thế cho Ngũ hành.

Nói rằng đói rách chẳng lành,

Xin bà làm phước thế mà cho tôi.

Ngũ Hành xem thấy thương ôi

Thương người đói rách đứng ngồi nào an.

Dương trần sao chẳng liệu toan ?

Sống sao thác vậy khác nào ở đâu.

Khuyên trong già trẻ mau mau,

Thành tâm tỉnh lại ăn năn kẻo lầm.

Cải ác tùng thiện nhứt tâm,

Tới cơn bát loạn Quan Âm cứu rày.

Dầu cho mỏi mệt mấy ngày,

Cũng không than trách cầu Thần thiện tâm.

Huệ Lưu chẳng kể ăn nằm,

Cầu cho cõi thế khuyên răng bền lòng.

Nam Mô Quan Thế Âm Bố Tát

giải thoát cứu trần.

(Niệm ba lần)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn