CHÁNH VĂN (Từ câu 73 đến câu 152)

21 Tháng Mười 200812:00 SA(Xem: 35736)
CHÁNH VĂN (Từ câu 73 đến câu 152)

73.-Gian-tà hồn xác cũng tiêu,

Thảm-thương bá-tánh chín chiều ruột đau.

          Mặc ai tranh luận thấp cao,

76.-Thương trong lê thứ xáo-xào từ đây.

          Chinh chinh bóng xế về tây,

Đoái nhìn trần-thế xác thây ê-hề.

          Thương trần Ta cũng rán thề,

80.-Đặng cho bá-tánh liệu bề tu thân.

          Tu hành chẳng được đức ân,

Thì Ta chẳng phải xác thân người đời.

          Phật truyền Ta dạy mấy lời,

84.-Đặng cho trần-thế thức thời tu-thân.

          Nào là luân lý Tứ-Ân,

Phải lo đền-đáp xác thân mới còn.

          Ai mà sửa đặng vuông tròn,

88.-Long-Vân đến hội lầu son dựa kề.

 

LƯỢC GIẢI (Từ câu 73 đến câu 88)

          -Căn cứ vào lý Tam ngươn thì cơ chọn lọc sẽ chấm dứt thời Hạ ngươn hạ để chuyển sang Thượng ngươn thượng; lúc đó chỉ còn tồn tại hạng người tốt đẹp thiện lương. Còn những kẻ gian tà xảo quyệt đều bị tiêu diệt cả hồn lẫn xác. Đức Thầy nhận biết tình cảnh thê thảm ấy mà xót thương cho bá tánh, dầu tiếng đời có bàn luận mỉa mai cũng mặc. Ngài luôn để tâm thương lo khắp dân chúng từ đây sẽ gặp cảnh chiến tranh loạn lạc.

          -Cuộc thế sắp đến ngày tàn cỗi, nhơn sanh phải chịu cảnh chết chóc dẫy đầy, muốn cứu nguy bá tánh chỉ còn có cách giác tỉnh họ quay đầu hướng thiện. Cho nên Ngài thệ quả quyết với chúng sanh: Nếu có một ai chuyên tâm hành Đạo mà không được thụ hưởng đức ân thì Ngài chẳng phải là con người trong vũ trụ. Xưa kia, Đức Phật cũng từng thệ trước đại chúng: “Hữu nhứt chúng sanh bất thành Phật quả, Ngã thệ bất thành Phật”.(Nếu có một chúng sanh nào tu hành mà không thành Phật thì Ta thệ không thành Phật). Và nay chư Phật đã sắc lịnh cho Đức Thầy khuyên dạy nhơn sanh được hiểu thời cơ, để họ sớm lo trau thân gìn Đạo.

          Trên bước đường tu hành, trước nhứt là phải cư xử, cho tròn Đạo làm người, đền đáp “Tứ đại Trọng ân”.Nếu ai“Tứ ân đã trả chẳng còn tội căn”.(Cho Ô. Cò Tàu Hảo) thì ngày Hội Long Vân tới đây xác thể sẽ còn nguyên vẹn, để chung hưởng cảnh đền vàng điện ngọc, của đời Thượng ngươn Thánh đức.:

                   Mấy người còn được xác thân,

                  Thì là đài ngọc các lân dựa kề”.(S/Giảng Q.3)

 

CHÚ THÍCH

          GIAN TÀ HỒN XÁC CŨNG TIÊU: Cơ chọn lọc cuối thời Hạ ngươn hạ, chuyển sang Thượng ngươn thượng, những kẻ tà gian hung ác đều bị luật đào thải diệt vong cả hồn lẫn xác. Bởi căn duyên và cách ăn ở của họ không hợp với thời Thánh đức ấy, nên phải bị:

                “…Hảm giam hồn xác chốn lao tù,

                     Làm bùn làm đất làm cây đá,

                     Trơ trọi giữa trời vạn kiếp tu”.

          Cuộc đọa lạc ấy diễn tiến qua các thời kỳ:

          1-Nhứt đạo linh hồn cư thủy: Trước hết linh hồn bị tiêu ra làm nước (hồn xác cũng tiêu). Khi đọa làm nước, vừa chịu cho người rửa giặt đồ dơ bẩn, vừa giúp cho bá tánh tắm và đỡ khát để trả nghiệp lần lần.       

          2-Nhị đạo linh hồn cư thổ: Khi mãn thời kỳ làm nước, linh hồn chuyển sang làm đất, chịu cho người đời trồng tỉa, đi đứng hoặc xây cất nhà cửa, dinh thự…

          3-Tam đạo linh hồn cư kim thạch: Từ đất, linh hồn tiến lên làm cát, đá, sắt, chì…Để xác minh điều nầy, xưa Đức Phật chỉ tay vào bức tường mà nói:“Tường, bích, ngõa, lịch giai hữu Phật tánh”.(Vách, phên, ngói, đá đều có Phật tánh như nhau).

          4-Tứ đạo linh hồn cư thảo mộc: Từ sắt đá, linh hồn tiến lên: lúa, rau, cây, cỏ, giúp nhơn loại nhờ nhỏi, sanh sống.

          5-Ngũ đạo linh hồn cư sanh vật: Từ cây cỏ linh hồn tiến lên các loài động vật (thú)…Bằng chứng là các loại tro rơm, cỏ mục bỏ nơi ẩm thấp hay ngoài đồng nội, khi mưa xuống sanh ra các loài côn trùng, cá…hoặc từ rễ cây gáo vàng hóa thành lươn, lịch…(Đoạn nầy, xin các bậc cao minh vui lòng bổ chính !).

          6-Lục đạo linh hồn cư nhân thể: Từ sanh vật linh hồn tiến lên làm thân con người. Theo luật tuần hườn của lý tam ngươn, đến đây đáo lại thời Hạ ngươn Hạ, bởi căn tánh và nghiệp cảm của số linh hồn nói trên chỉ sống hợp với thời kỳ nầy mà thôi; chớ không thể sống hợp với thời Trung ngươn hay Thượng ngươn được, nếu họ không chịu tiến hóa.

          CHÍN CHIỀU RUỘT ĐAU: Đau xót tột độ và nhiều bề. Bởi lòng từ bi của Phật đối với chúng sanh như tình mẹ thương con (Phật ái chúng sanh như mẫu ái tử). Nay Đức Thầy thấy chúng sanh lâm vào cảnh khổ mà Ngài thương yêu đau xót như thế. Ngài từng dạy:“Phải nhớ rằng: ngày giờ nào còn có kẻ trong chúng sanh chịu khổ, thì ta cũng phải khổ vì họ vậy”.(Bát chánh: Chánh Tinh Tấn), và:“Ta chịu khổ, khổ cho bá tánh”.(Sa Đéc).

Khi xưa, Đức Văn THù Sư Lợi đến thăm bịnh Ngài Duy Ma Cật và hỏi:

          - Bệnh cư sĩ nhơn đâu mà sanh, sanh đã bao lâu, phải thế nào mới mạnh được ?

          Ngài Duy Ma Cật đáp:

          - Bịnh tôi từ ái mà sanh. Vì tất cả chúng sanh bịnh, nên tôi bịnh. Nếu tất cả chúng sanh không bịnh thì bịnh tôi lành. Vì sao ? Bởi Bồ Tát vì chúng sanh mà vào đường sanh tử, hễ có sanh tử thì có bịnh, nếu chúng sanh khỏi bịnh thì Bồ Tát không có bịnh. Ví như ông Trưởng giả chỉ có một người con, hễ người con bịnh thì cha mẹ cũng bịnh, nếu bịnh của con lành, cha mẹ cũng lành. Bồ Tát cũng thế ! Đối với tất cả chúng sanh, thương mến như con, nên chúng sanh bịnh, Bồ Tát cũng bịnh, chúng sanh lành, Bồ Tát cũng lành. - Ngài lại hỏi bịnh ấy nhơn đâu mà sanh ? - Bồ Tát có bịnh là do lòng đại bi.

          Ngày nay, Đức Giáo Chủ PGHH cũng từng nói:

                   “Xuống Bạc Liêu chưa bao nhiêu độ,

                     Bỗng ruột tầm quằn quặn rứt đau.

                     Phần thương dân phổi héo, gan xàu,

                     Ngồi, đi, đứng, nằm lăn lóc mãi”.

                                      (Gởi Bác sĩ Cao Triều Lợi -Bạc Liêu)

            XÁO XÀO: (Xem CT câu 133, T-1, Q.1).

          TU THÂN : Sửa mình. Sửa bỏ những điều tội lỗi xấu xa: sát sanh, đạo tặc, tà dâm…và làm những điều lương thiện, tốt lành. Sách Đại Học dạy:“Tự Thiên tử dĩ chí u thứ nhân, nhứt thị giai dĩ tu thân vi bổn”.(từ Vua quan cho đến thứ dân, ai nấy phải lấy sự sửa mình làm gốc). Đức Thầy hằng dạy:

                   Tu thân thiện tín rán chuyên cần,

                    Lục tự Di Đà giữ Tứ ân”.(Nhẫn đợi thời cơ)

            ĐỨC ÂN: Người biết làm lành, làm phải, có lòng tốt, thương người, mến vật và ăn ở đúng theo Đạo lý, thì được hưởng mọi điều phúc huệ, do Trời Phật ban cho. Đức Thầy đã cho biết:

                   Nhờ ơn Trời ban bố đức ân,

           Xem chung cuộc Phong Thần tại thế”.(Giác mê, Q.4)

            THỨC THỜI: Hiểu rõ thời thế.

          LUÂN LÝ: (Xem CT câu 383, T-2, Q.2)

          TỨ ÂN: Bốn điều ơn. Theo Kinh xưa, bốn ơn là: Ân Phụ Mẫu, Ân Quân Vương, Ân Tam bảo và Ân Chúng sanh. Nay vì muốn cho sự giáo hóa chúng sanh được thích hợp với trào lưu hiện đại, nên Tứ Ân theo Đức Thầy dạy có thay đổi một ít chữ như sau: Ân Tổ tiên Cha mẹ, Ân Đất nước, Ân Tam bảo, Ân Đồng bào và Nhơn loại. Kinh Phật có câu:“Thượng báo tứ trọng ân, Hạ tế tam đồ khổ”.(Trên đáp bốn ân lớn, dưới độ ba đường khổ). Đức Thầy nay luôn nhắc nhở:

                   “Một câu quân lý tứ ân,

          Ta đừng phai lợt Phong thần bảng ghi”.

                                                (Để chơn đất Bắc)

          LONG VÂN: (Xem CT câu 62, T-1, Q.1).

          LẦU SON: Lầu đỏ, do chữ “Lầu son các tía”. Đây chỉ cho lầu đài quí báu sau nầy, do Phật Trời ban thưởng cho những người xong tròn Đạo lý, vẹn đáp tứ ân:

                   Chừng Bảy núi lầu son lộ vẻ,

                     Thì người già hóa trẻ dân ôi !”

                                      (Đáp lời Ô. Lương văn Tốt)

 

CHÁNH VĂN

           89.-Thương đời văn-vật say mê,

Làm điều gian-ác thảm-thê sau nầy.

          18.-Kể từ hầu hạ bên Thầy,

92.-Vào ra chầu-chực đài mây cũng gần.

          Tuy là nương dựa non Tần,

Ngày sau thế cuộc xoay vần về Nam.

          19.-Qua sông nhờ được cầu Lam,

96.-Tu hành nào đợi chùa am làm gì.

          Bây giờ bạc lộn với chì,

Nữa sau lọc lại vít tì cũng chê.

          Bớ dân chớ có say mê,

100.-Trung-lương chánh-trực dựa kề đài mây.

          20.-Mảng lo gây gổ tối ngày,

Chẳng lo rèn đúc trí tài hiền-lương.

          Thân Nầy ăn tuyết nằm sương,

104.-Chẳng than chẳng thở vì thương thế-trần.

 

LƯỢC GIẢI (Từ câu 89 đến câu 104)

          -Đức Thầy thảm thương cho người đời quá đam mê văn minh vật chất, gây nghiệp tà gian hung ác, mà phải gặt lấy quả đau khổ sau nầy. Hồi tưởng, lúc Ngài theo Đức Phật Thầy tu học Đạo Pháp, tại đỉnh núi Tà Lơn. Núi nầy tuy hiện giờ nằm trên địa phận nước Miên, nhưng sau nầy thời thế sẽ xoay chuyển trở thành của nước Việt Nam.

          -Ngài dùng điển ngữ Cầu Lam, ý dạy người muốn tu hành giải thoát, không luận phải tìm nơi chùa miễu am cốc mà bất cứ nơi nào, dù ở quán xá hay thôn dã, miễn ai có căn duyên và nhiệt tâm hành đạo là được.

          -Giờ đây số người thật giả, tà chánh còn đang lẫn lộn, song đến một ngày kia sự chọn lọc rất rõ ràng, dù còn vi phạm một lỗi nhỏ cũng không xài được:“Nấu lọc rành mới biết vàng thau, Ai thật tánh ai người giả Đạo”.(Sa Đéc) Ngài còn kêu gọi dân chúng, chẳng nên đua theo làn sóng văn vật của Âu Tây, làm điều dua nịnh, cần giữ lòng ngay chánh, trọn nghĩa quốc dân, để ngày kia được hưởng mọi sự an nhàn nơi Tiên cảnh.

          -Ngài thấy trong lê thứ mãi lo giành giựt xâu xé lẫn nhau, chẳng chịu sớm hồi tâm hướng thiện, trau giồi trí đức. Phần Ngài trên đường châu du độ thế dầu phải lắm gian lao vất vả cũng chẳng hề than thở:“Thân ta dầu lắm đoạn trường, Cũng làm cho vẹn chữ thương nhơn loài”.(Cảm tác)

CHÚ THÍCH

          VĂN VẬT: Sản vật của văn hóa, gồm có lễ vật và chế độ. Đây chỉ cho văn minh về vật chất, trái với văn minh tinh thần. Đức Thầy cho biết trong “Diệu pháp Quang minh”:

                   Bởi vì đời văn vật cạnh tranh,

                     Nên cấu xé cùng nhau thảm não”.

          ĐÀI MÂY: (Xem CT câu 29, T-2, Q.3).

          NON TẦN: Chỉ cho núi Tà Lơn, nơi ông Cử Đa (Ngọc Thanh) tu đắc Đạo. Vì theo cơ giảng thì Tần ám chỉ cho nước Miên, mà núi Tà Lơn nằm trên địa phận nước Miên, nên gọi là non Tần.

          CẦU LAM: Do chữ “Lam Kiều”, cây cầu bắc ngang dòng sông Lam, thuộc huyện Lam Điền, tỉnh Thiểm Tây (Tr.Hoa). Nơi đây, Bùi Hàng được gặp Vân Anh và sau thành Tiên. Do điển tích:

          Đời Đường (Tr.Hoa) có anh Bùi Hàng, trên đường đáp thuyền đi Tương Hán, bất ngờ được cùng đi chung thuyền với nàng Vân Kiều, người đẹp vào hàng quốc sắc. Hàng nhờ người hầu gái của Vân Kiều đưa thư hộ, nên được tiếp chuyện với Vân Kiều và được nàng tặng cho bài thơ:

                   Nhất ẩm quỳnh tương bách cảm sinh,

                     Huyền sương đảo tận kiến Vân Anh.

                     Lam Kiều tiện thị Thần Tiên quật,

                     Hà tất khi khu thượng Ngọc Kinh”.

                   (Uống rượu quỳnh tương trăm cảm sinh,

                          Huyền sương giã thuốc thấy Vân Anh.

                          Lam Kiều vốn thiệt nơi Tiên ở,

                          Hà tất băng đường đến Ngọc Kinh).

          -Sau Bùi Hàng y như lời dặn trong thơ đến Lam Kiều, Hàng dừng chân nơi quán trọ bên vệ đường của một bà lão để giải khát. Con gái của bà lão bưng nước ra, Hàng trông thấy rất xinh đẹp bèn hỏi tên, rõ ra là Vân Anh, em ruột của Vân Kiều; Hàng xin bà lão được cưới nàng làm vợ. Lão bà bảo Hàng tìm được cối chày bằng ngọc đem lại, bà sẽ gả Vân Anh cho, khỏi cần vàng bạc chi hết. Nhờ lòng nhiệt thành, Hàng được thần tiên giúp đỡ và cưới được Vân Anh.

          -Lão bà liền chỉ cho Hàng về cách công phu tu tập và bảo Hàng dùng cối chày đó tán thuốc Tiên trọn ba tháng. Khi làm thuốc xong, cả ba người cùng uống, họ đều được thành Tiên hết.

          -Do điển tích trên đây mà các Kinh sách xưa nay cùng các nhà văn, thường dùng từ ngữ cầu Lam, hoặc Lam Kiều, để chỉ con đường đưa đến cảnh Tiên. Cổ thi có câu:“Trăm năm thề chẳng lòng phàm, Sông ngân đưa bạn, cầu Lam rước người”. Đức Thầy nay cũng bảo:

                   “Lam Kiều hữu lộ vắng hoe,

             Ngục môn không cửa mà hè nhau đi”.

                                                  (Để chơn đất Bắc)

          TRUNG LƯƠNG: Trung nghĩa và lương thiện. Xưa, Đường thế Dân (Tr.Hoa) xây đắp lăng của vợ (Hoàng Hậu) đẹp hơn lăng của mẹ (Hoàng Thái Hậu). Hôm nọ, vua Đường và Thừa tướng Huỳnh Trung viếng mộ, Vua có ý khoe lăng vợ mình đẹp hơn hết, Huỳnh Trung tâu:

          -Theo mắt của hạ thần, xem thấy lăng của Hoàng Thái Hậu sáng sủa hơn lăng của Hoàng Hậu. Nghe qua vua Đường hiểu ý…liền truyền lịnh hạ bớt vẻ đẹp lăng của vợ và cho xây lăng của mẹ cao tốt hơn trước. Sau đó, vua Đường vời Huỳnh Trung đến khen:

          -Khanh thật là người tôi trung thần của Trẩm !

          Huỳnh Trung liền tâu:

          -Xin Bệ hạ ban cho thần hai chữ: Lương Thần, chớ đừng gọi là Trung Thần.

          Ý muốn nói trung thần như Tỷ Cang, vì can vua Trụ bằng lời khẳng khái nên bị chết; chẳng những không được việc mà còn làm đất nước mất một tôi trung. Còn Huỳnh Trung biết dùng lời nhu hòa khéo léo can vua, chẳng những được vua Đường nghe theo lại còn ban khen nữa, nên gọi là tôi trung lương hay là lương thần. Vì thế ngày nay Đức Thầy thường nói:“Tiết trung lương nghĩa khí rạng ngần”. và:“Chữ anh tài của đấng trung lương”.(Nang thơ Cẩm tú)

          ĂN TUYẾT NẰM SƯƠNG: Vốn là một thành ngữ. Có nghĩa: sự ăn ngủ giữa trời đầy sương tuyết lạnh lẽo. Ý chỉ cho sự khó khăn vất vả của người đi đường:“Quản bao tháng đợi năm chờ, Những người ăn tuyết nằm sương xót thầm”.(truyện Kiều)

          Ở đây, ý toàn câu: Vì lòng từ bi nên bước đường dạy Đạo cứu dân của Đức Thầy, chẳng quản sự gian lao khổ khó.

CHÁNH VĂN

          105.-Theo Thầy giảng dạy nhiều lần,

Dương-gian nào biết thế-trần nào hay.

          Cầu cho dân khỏi nạn tai,

108.-Qua nơi khổ-não mặc ai chê cười.

          Bạc đâu dám sánh vàng mười,

U-mê mà lại chê cười Thần Tiên. 

          Giã-từ sơn-lãnh lâm-tuyền,

112.-Về đây hội hiệp sạ duyên tớ Thầy.

          Ở rừng bạn với cáo-cầy,

Bây giờ xuống thế cáo-cầy lìa xa.

          Thiên-cơ biến đổi can qua,

116.-Gẫm trong thế-giới còn đôi ba phần.

          Mau mau kíp kíp chuyên cần,

Chúng sanh còn có lập thân hội này.

          Tuần-huờn Thiên-Địa đổi xây,

120.-Cảm thương trần-hạ lòng Đây chẳng sờn.

 

LƯỢC GIẢI (Từ câu 105 đến câu 120)

          -Đoạn nầy ý nói ông Cử Đa đã nhiều lần theo Đức Phật Thầy châu du độ chúng, thế mà dương trần nào ai hay biết. Ngài hằng nguyện cầu cho khắp chúng dân, sớm thoát qua tai khổ, dầu ai có cười chê cũng mặc.

          -Giá trị của bạc không thể so với vàng, cũng như kẻ phàm nhân, làm sao thấu hiểu hành trạng của Phật Thánh, thế bảo làm sao mà họ chẳng cười cho được. Lão Tử đã nói: Bực Thượng sĩ nghe Đạo thì siêng sắng mà làm theo. Bực Trung sĩ nghe Đạo thì dường như còn như mất (nửa tin nửa ngờ, khi làm khi bỏ). Bực Hạ sĩ khi nghe Đạo thì cười lớn. Nếu họ chẳng cười thì không đủ gọi là Đạo. (Thượng sĩ văn Đạo cần nhi hành chi, Trung sĩ văn Đạo nhược tồn nhược vong, Hạ sĩ văn Đạo đại tiếu chi. Bất tiếu bất dĩ vi Đạo). Bởi Đạo rất cao thâm, bực hạ căn không thể hiểu nổi, họ cho là huyễn hoặc nên mới chê cười.

          -Nhớ lại lúc còn hành Đạo nơi rừng núi, Đức Cử thường dạy dỗ các loài cầm tnú. Nay Ngài từ giã cảnh vật ấy để trở lại trần gian cùng với Đức Phật Thầy lo giác tỉnh quần sanh.

          -Máy trời đã xoay chuyển, cả thế giới sắp diễn ra cuộc chiến tranh tàn khốc, từ đây đến ngày kết cuộc trong nhân vật phải chịu hao hớt, mười phần chỉ còn hai ba mà thôi:“Nhơn vật mười phần hao bảy tám, Thần Tiên thấy vậy cũng châu mày”.(Giảng xưa của Đức Phật Thầy) Nên Đức Thầy kêu gọi khắp chúng sanh phải gấp rút tu hành, bởi lẽ:

                    “Có một hội nầy lập lấy thân,

                     Nếu để trễ chầy e chẳng kịp,

                   Khuyên ai khuya sớm gắng chuyên cần”.

                                                (Để chơn đất Bắc)

          Ngài nhìn luật xoay vòng của Trời đất mà thảm thương cho bá tánh, nên quyết tâm cứu độ, dầu gặp bao nghịch cảnh cũng chẳng hề nao núng.

 

CHÚ THÍCH

          VÀNG MƯỜI: Vàng thiệt, vàng y. Ý nói giá trị cao quí hơn hết:“Vàng mười, bạc bảy, thau ba”.(Ca dao)

          SƠN LÃNH LÂM TUYỀN: Núi non rừng suối.

          SẠ DUYÊN: Sạ là chữ Sự đọc trại (tiếng địa phương). Vậy Sạ duyên tức là Sự duyên. Có nghĩa duyên do sự việc.

          CÁO CẦY: Loại thú rừng, cùng một loại với chồn, thường ở hang, biết leo, thịt ngon; tức là loại chồn thường hay bắt cá. Có nhiều thứ cầy như: cầy hương, cầy bạc má, cầy bông lao (có khi người ta gọi chó là cầy).

          Ở đây ý nói người đã giác ngộ, lúc nào cũng đầy lòng vị tha từ ái đối với vạn loại chúng sanh. Cho nên trong lúc Đức Thầy ở nơi rừng núi, Ngài cũng có dạy dỗ các loài thú:

                   “Chốn non xanh dạy dỗ cáo cầy,

                 Xuống trần thế ra tay dắt chúng”.(Giác Mê, Q.4)

            CAN QUA: Can là cái mộc, (thứ binh khí dùng để đỡ mũi gươm, giáo, tên…Qua là cái giáo. Can qua là tiếng nói chung để chỉ cho các loại binh khí, tức là nói đến sự chiến tranh, Đức Thầy có câu:“Vọng cầu thế giới dứt can qua” :“Can qua binh lửa sát sanh linh”.(Mong chờ)

          CHUYÊN CẦN:Chăm chỉ và siêng năng, gắng gổ.

          TUẦN HUỜN THIÊN ĐỊA: Định luật xoay vòng của Trời đất, do câu:“Thiên địa tuần huờn châu nhi phục thỉ”.(Luật Trời đất xoay giáp vòng thì trở lại chỗ khởi đầu).

CHÁNH VĂN

          121.-Cũng còn kẻ ghét người hờn,

Vì không rõ hiểu sạ duơn của Thầy.

          Hổ-lang ác-thú muôn bầy,

124.-Lớp bay lớp chạy sau nầy đa-đoan.

          Ai mà ăn ở nghinh-ngang,

Đón đường nó bắt xé tan xác hồn. 

          Chữ rằng họa phước vô môn,

128.-Đáo đầu cũng phải xác hồn tiêu tan.

          Khuyên người hữu phước giàu sang,

Mau mau làm phước làm doan cho rồi.

          Để sau khó đứng khôn ngồi,

132.-Thương nhà tiếc của biết hồi nào nguôi.

          Ai mà ăn ở ngược xuôi,

Bị nơi rắn rít chẳng vui đâu là.

          Rắn to tên gọi mãng-xà,

136.-Trên rừng nó xuống nó tha dương-trần.

          Ai mà tu tỉnh chuyên cần,

Làm đường ngay thẳng có Thần độ cho.

          Thương đời hết dạ cần lo,

140.-Chẳng lo niệm Phật nhỏ to làm gì ? 

 

LƯỢC GIẢI (Từ câu 121 đến câu 140)

          -Vì lòng từ bi, Đức Giáo Chủ lâm trần khai Đạo, nhưng cũng có số người hờn ghét, vì họ chưa rõ hết duyên do. Ngài cũng tiên báo cho mọi người được biết, đến ngày cùng cuối của buổi Hạ ngươn, sẽ có cuộc chọn lọc bằng cách: có các loài thú dữ, như: hùm, beo, lang, sói…tràn xuống khắp dân gian, tàn sát người hung dữ.

          -Xưa nay, Phật Thánh từng dạy: những việc họa hay phúc đều do chính mình tạo nhân, rồi tự mình rước quả, chớ không phải từ đâu đưa lại. Hễ gieo gió thì gặt bão, dù sự việc rất nhỏ, như: món ăn, thức uống…cũng đều do tiền nghiệp của mình mà nên cả (nhứt ẩm nhứt trác giai do tiền định). Qua cuộc chọn lọc, kẻ ngang tàng bạo ngược đều bị tiêu tan cả hồn lẫn xác.

          -Đức Thầy kêu gọi hạng người giàu có, nên mở lòng bố thí để gieo duyên lành về sau, sẽ được hưởng nhiều phúc huệ cao quí hơn. Bằng ai mãi thương nhà tiếc của:“Giữ bo đến lúc phong ba, Gặp cơn bát loạn khó mà yên thân”.(Khuyên người giàu lòng Phước Thiện)

          -Còn hạng ăn ở ngược xuôi, hành động tráo trở, chẳng tôn trọng lẽ công bằng Đạo lý thì sau nầy, sẽ bị các loài rắn rít to lớn, từ trên rừng núi tràn xuống sát hại, khó mà bảo tồn tánh mạng.

          -Còn những ai biết thức tỉnh tu hành, chuyên cần tinh tấn, hành động theo con đường ngay chánh, tất được chư Thánh Thần gia hộ cho bình yên. Vì lòng từ bi Đức Thầy dốc hết tâm lực vào công việc khuyến dạy nhân sinh; sao chẳng sớm lo niệm Phật làm lành, lại cứ lo toa rập chê bai làm chi cho mang khẩu nghiệp.

 

CHÚ THÍCH

          ĐA ĐOAN: Nhiều việc, rất nhiều.

          NGHINH NGANG: Cũng gọi là nghênh ngang. Có nghĩa: ngang tàng bướng bỉnh, không kiêng nể ai. Đức Thầy từng khuyên:

                   Nghinh ngang hổn ẩu phải chừa,

              Bà con nội ngoại dạ thưa mới là”.(Sám Giảng Q.3)

          HỌA PHƯỚC VÔ MÔN: Do câu:“Họa phước vô môn, duy nhơn tự triệu. Thiện ác chi báo như ảnh tùy hình”.(Họa, phước không có cửa, chỉ do con người tự rước lấy mà thôi. Còn sự báo ứng của việc lành hay dữ, cũng như bóng theo hình).

          Thêm nữa kẻ cầm đuốc đi gió ngược, sẽ bị lửa táp phỏng tay, ngửa mặt phun nước miếng lên Trời, nước ấy sẽ rớt xuống mặt mình. Kẻ làm ác cũng thế, lúc đối đầu chỉ rước họa hại vào thân.

          ĐÁO ĐẦU: Cũng gọi là đối đầu (Xem CT câu 126, T-1, Q.1).

          HỮU PHƯỚC GIÀU SANG: Người có phước nên được giàu sang phú quí. Theo “Luật nhân quả” những người hiện giờ được giàu có uy quyền là do thời gian trước hoặc tiền kiếp họ đã tạo nhân từ thiện, bố thí. Đức Thầy hằng khuyên họ:

                   “Ngày nay tốt phước sang giàu,

                Xin thương kẻ khó giúp hào một khi”.

                                  (Khuyên người giàu lòng Phước thiện)

            LÀM PHƯỚC LÀM DOAN: (Xem CT câu 810, T-1, Q.1).

          NÀO NGUÔI: Chẳng nguôi, chẳng vơi được. Ý nói cơn sầu thảm kéo dài mãi không lúc nào cùng cạn.

          NGƯỢC XUÔI: Ngược là nghịch, không thuận, đảo dưới lên trên; Xuôi là thuận chiều. Ngược xuôi là khi thuận khi nghịch không thuần nhứt. Đây ý chỉ hạng người xảo quyệt không chơn chánh, lòng dạ đời đổi, ăn nói ngược xuôi.

          MÃNG XÀ: Rắn lớn. Vào năm 1939, Đức Thầy có dắt Đức Ông (thân sinh của Ngài) đi viếng núi Tà Lơn. Khi đến một khu rừng nọ, chính Đức Ông thấy hình như ba cây súc lớn nằm dài, lá cây rụng khuất cả. Đức Ông nói:

          -Người ta đốn cây ở đây làm sao đem xuống núi ?

          Đức Thầy đáp:

          -Đâu phải cây, rắn đó ! Nói rồi Ngài liền nhảy lên, dùng chân dậm ít cái rồi nhảy xuống, bỗng đâu ba khúc ấy động đậy, cong lên, lá cây đổ ồ xuống bày ra ba thân con rắn thật lớn, bề tròn độ hai người ôm không giáp. Vảy to, lớn hơn dĩa bàn, mình nó dài lắm, đầu đuôi khuất đâu chẳng thấy. Đức Ông hoảng sợ, chạy lùi lại rất xa. Đức Thầy chạy theo kêu Đức Ông dừng lại và nói:

          -Không sao đâu ! Nhưng đến thời tận diệt có cả bầy rắn như thế nầy, chúng bò lội khắp nơi cắn nuốt những người hung tàn bạo ngược.(Dẫn theo lời ông Nguyễn Hữu Truyền, do Đức Ông kể lại cho ông Truyền nghe) Điều nầy trong Sấm Giảng Q.1 Đức Thầy thường nhắc:

“Ngày sau sẽ thấy thú cầm chỉn ghê.

Hùm beo Tây tượng bộn bề,

Lại thêm ác thú mãng xà, rít to.

Bá gia ai biết thì lo,

Gác tai gièm siểm đôi co ích gì”.

          HẾT DẠ: Hết lòng, dốc hết tâm trí để lo một việc gì.

CHÁNH VĂN

          141.-Tu là: tâm trí nhu mì,

Tu hiền tu thảo vậy thì cho xong.

          Tu cầu cứu vớt Tổ-Tông,

144.-Với cho bá-tánh máu hồng bớt rơi.

          Tu cầu cha mẹ thảnh-thơi,

Quốc-vương thủy-thổ chiều mơi phản-hồi.

          Tu đền nợ thế cho rồi,

148.-Thì sau mới được đứng ngồi tòa sen.

          Người tu phải lánh hơi men,

Đừng ham sắc lịch lắm phen lụy mình.

          Tu là sửa trọn ân tình,

152.-Tào-khang chồng vợ bố-kình đừng phai.

 

LƯỢC GIẢI (Từ câu 141 đến câu 152)

          -Đoạn nầy Đức Thầy khuyên dạy người tu cần phải lo trau giồi tâm trí, sửa tánh răn lòng cho được hiền hòa chin chắn; hết lòng tôn kính và bảo dưỡng cha mẹ để được vẹn tròn câu hiếu thảo. Ngoài ra còn phải tu cầu cho Tô Tông dòng họ được siêu thoát và khắp vạn dân khỏi bị chết chóc vì nạn đao binh.

          -Đối với cha mẹ còn sanh tiền thì cầu cho được an nhàn phúc thọ, đất nước sớm phục hồi nền tự chủ. Điều quan trọng là phải trả xong nợ thế, tức lo đền đáp bốn ân. Đồng thời rán ngăn ngừa mười điều ác để diệt trừ nghiệp báo, sanh tử luân hồi. Ai hành trì được như thế, tức đặng siêu thoát về Cực lạc mà an tọa trên tòa sen.

          -Bước tu hành cần phải lánh xa hai điều tệ hại : rượu và sắc dục, vì nếu chè rượu say sưa thì sanh nhiều tội lỗi; còn đắm mê sắc lịch ắt phải đọa lạc trong sáu nẻo luân hồi. Bởi nguyên nhân của sanh tử là do lòng ái dục (Hải trung sanh tử, ái dục đệ nhất). Riêng phần nhân Đạo trong gia đình, việc đối xử giữa chồng vợ, phải thuận hòa ân nghĩa, không nên vì hoàn cảnh sang hèn mà đổi thay tình ý.

CHÚ THÍCH

          TÂM TRÍ: (Xem CT câu 253, T-1, Q.1).

          NHU MÌ: (Xem CT câu 49, T-1, Q.1).

          TỔ TÔNG: Ông bà dòng họ, cũng chỉ chung như chữ “Cửu Huyền Thất Tổ”. Toàn câu ý nói người quyết chí tu hành cho đến khi đắc Đạo thì độ được Ông Bà dòng họ siêu thoát. Cổ nhân từng bảo:“Nhứt nhơn thành Đạo, cửu huyền thăng”.(Một người tu đắc Đạo, độ được Ông Bà cha mẹ lần lượt siêu thăng). Đức Thầy cũng từng dạy trong bài “Cho ông Cò Tàu Hảo”:

                   Ngày nào đắc được lục thông,

                   Vớt hồn cha mẹ Tổ Tông bảy đời”.

          QUỐC VƯƠNG THỦY THỔ: Đất nước vua chúa. Chỉ cho đất nước Việt Nam.

          PHẢN HỒI: Hồi phục trở lại. Ý toàn câu dạy tu cầu cho đất nước của mình sớm được thanh bình và lấy lại chủ quyền. Đức Thầy có viết:“Ấy mới mong quốc vận phản hồi”.(Gọi Đoàn)

            NỢ THẾ: Nợ đời, tức những gì ta đã thọ, đã gây tạo. Nợ thế có hai phần:

          a)- Ân nợ: tức là nợ Tứ Ân. Con người có được xác thân là nhờ Tổ tiên cha mẹ; có nơi ăn chốn ở là nhờ đất nước; biết được lẽ Đạo mầu, phải trái là nhờ Tam bảo; có đủ vật liệu cần dùng là nhờ đồng bào nhân loại. Đó là bốn ân lớn mà ai ai cũng phải thọ và phải lo đền trả. Đức Thầy hằng khuyên:“Trả nợ thế nghĩa ân trọn vẹn”.(Vọng Bắc hoà Nam) và “Tứ ân đã trả chẳng còn tội căn”.(Cho Ô. Cò Tàu Hảo).

          b)- Nghiệp nợ: Nợ do tam nghiệp, thập ác gây nên, khiến chúng sanh mãi luân chuyển báo đền. Kinh nói:“Sở dĩ có luân hồi là do ba nghiệp: thân, khẩu, ý gây nên, nó cứ tiếp nối nhau luôn tạo thành sức mạnh, lôi kéo chúng sanh; sau khi mạng chung phải đầu thai vào một thân xác khác để đền trả tiền nghiệp và lòng khát ái của mình. Cho nên Đức Thầy dạy:“Muốn làm tròn nhân Đạo phải giữ vẹn Tứ ân, nhưng trước hết hãy tránh Tam nghiệp và chừa Thập ác, cũng như muốn làm giàu phải tránh đừng cho thiếu nợ”.(Luận về Tam nghiệp) Vì thế Ngài cực lực khuyên bảo:

                   “Nợ thế âu toan tròn nợ thế,

                Đường tu sớm liệu vẹn đường tu”.(Tỉnh giấc mơ)

            TÒA SEN: Chỗ ngồi bằng sen, nơi Phật ngự. Bởi sen là thứ hoa có đặc tánh trong sạch, không ô nhiễm, nên chư Phật dùng nó làm chỗ an tọa. Ý chỉ người tu khi đắc Đạo thì được ngồi tòa sen báu bên cõi Tây Phương cực lạc. Đức Thầy có câu:“Tây phương Cực lạc khùng ngồi tòa sen”.(Dặn dò Bổn đạo) hay là:“Quyết làm tôi Phật gởi thân liên đài”.(Khuyến Thiện Q.5)

          HƠI MEN: Hơi rượu. Ý chỉ sự uống rượu. Người tu cần phải xa lánh, bởi Kinh Phật từng nói:“Ninh ẩm dương đồng, thân vô phạm tửu”.(Thà uống nước đồng sôi, răn dè chớ uống rượu). Hoặc là:“Rượu là gốc buông lung, muốn khỏi đường ác đừng uống; Thà bỏ trăm nghìn thân, trọn không uống rượu nầy”.

          SẮC LỊCH: Sắc đẹp. Một trong tứ đổ tường, cũng là một trong năm điều ham muốn (ngũ dục).(Ngũ dục là muốn sắc đẹp, muốn tài của, muốn danh tiếng, muốn ăn uống, muốn ngủ nghỉ.) Biết bao tấm gương nhơ nhớp vì đắm say sắc lịch. Chính nó đã gây nên những cuộc đổ nước nghiêng thành, đảo lộn luân thường đạo lý lắm người bị nó nhận chìm trong hố sâu tội lỗi. Cổ nhân từng bảo:“Sắc bất ba đào dị nịch nhân”.(Sắc đẹp tuy không phải sóng gió nhưng dễ nhận chìm được người). Trong Tỉnh Thế Ngộ Chơn cũng dạy:

                   “Sắc tác hậu tự tiền thế đại,

                   Tán tinh hao khí, khổ linh hồn”.

            (Nữ sắc tuy dùng nối truyền đời trước, nhưng cũng bởi sắc làm cho con người tán tinh, hao khí và linh hồn bị sa đọa).

          ÂN TÌNH: Ân huệ và tình nghĩa thân yêu. Ví dụ: Ân tình vẹn vẻ đôi đường.

          TÀO KHANG: Cũng gọi là Tao Khang. Tào là tấm (bã rượu). Khang là cám gạo. Ý nói người vợ cưới hồi còn nghèo khổ. Do điển tích:

          Vua Quang Võ, có người chị gái là Hồ Dương Công chúa, sớm góa chồng. Vua có ý định gả cho quan Thượng thư là Tống Hoằng, nhưng Hoằng đã có vợ. Vua bèn vời Tống Hoằng đến ướm thử:

          - Trẩm nghe thiên hạ thường nói sang đổi bạn, giàu đổi vợ, có chăng ? (Ngạn ngữ: Quới dịch giao, phú dịch thê, hữu chư ?).

          Tống Hoằng tâu:

          - Thần nghe: Người bạn lúc hàn vi không nên phụ, người vợ cưới lúc nghèo hèn, không nên bỏ. (Thần văn: Bần tiện chi giao mạc khả vong, Tào Khang chi thê bất khả hạ đường).

          Vua Quang Võ nghe qua biết ý Tống Hoằng không tham giàu phụ khó, nên không ép nữa.

          Do điển tích trên đây, văn chương thường dùng thành ngữ “Tào Khang” để nói vợ chồng lấy nhau từ thuở hàn vi, vẫn giữ tình nghĩa mặn nồng cho đến khi gìa chết mới trọn Đạo:“Đạo chồng vợ thuận hòa cho đến thác”.(Không buồn ngủ)

            BỐ KÌNH: (Xem CT câu 11, T-1, Q.1).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn