Đức Bổn Sư

13 Tháng Giêng 200612:00 SA(Xem: 42424)
Đức Bổn Sư

1. HÀNH TRẠNG.

 Thời kỳ thứ hai là thời kỳ củng cố giáo hệ Bửu- Sơn  Kỳ- Hương. Thời kỳ này kéo dài trong suốt thời gian Đức Bổn Sư ra mở đạo

           Cứ như được biết, trường hợp tỏ ngộ của Đức Bổn Sư cũng không khác trường hợp tỏ ngộ của Đức Phật Thầy Tây An và Đức Phật Trùm, nghĩa là hốt nhiên tỏ ngộ và dùng phép huyền điệu  độ bịnh cứu dân. Điều làm cho mọi người phải ngạc nhiên, cũng như người ta đã ngạc nhiên về trường hợp của Đức Phật Trùm, là Đức Bổn Sư không hề được  Đức Phật Thầy Tây An hay Đức Phật Trùm truyền giáon thế mà khi tỏ ngộ, Ngài cũng phát lòng phải Bửu- Sơn  Kỳ- Hương và xiển dương pháp môn Tu Nhân Học Phật y như có suy truyền kế vậy.

           Nhưng khổ nỗi ! Khi Ngài ra đời lại gặp phải thời kỳ quân Pháp sang chiếm nước Việt Nam. khắp nơi trong nước, các vị anh hùng ái quốc nổi lên phong trào Cần vương kháng chiến, trong số đó có Đức Cố Quản Trần Văn Thành, Nguyễn Trung Trực, và môn đệ của Đức Phật Thầy Tây An. Vì thế mà quân Pháp cực lực truy nã tín đồ Bửu- Sơn  Kỳ- Hương. Đức Phật Trùm bị bắt đày đi cũng vì duyên cớ ấy.

           Vả lại, pháp môn Tu Nhân Học Phật của giáo hệ Bửu- Sơn  Kỳ- Hương lại khuyên tu Tứ Ân Hiếu Nghĩa, gây cho dân chúng một tinh thần hy sinh cao cả đối với đất nước quê hương, càng khiến cho quân Pháp, muốn đặt vững uy quyền của mình, phải thẳng tay đàn áp. Thế nên, không có thời kỳ nào mà giáo hệ Bửu- Sơn  Kỳ- Hương chịu nhiều gian nguy khổ ách bằng thời kỳ Đức Bổn Sư ra hoằng hóa. Có đọc qua lịch sử của Ngài mới thấy Ngài rất dày công trong việc củng cố giáo hệ Bửu- Sơn  Kỳ- Hương (1.     )

           Trong kinh Hiếu Nghĩa gồm có ba quyền do Đức Bổn Sư sáng tác thì vào giờ ngọ ngày mồng 5 tháng 5 năm Đinh Mão (1867). Ngài dọn mình bỏ tục  (chuyển thân khử tục). Trong bảy ngày bảy đêm, Ngài nằm đê mê cho đến ngày thứ bảy thì lặng nhiên tỉnh lại; Ngài cảm thấy lòng trần đã rửa sạch. Và bắt đầu từ đó, Ngài đi phổ hóa độ sanh. Tứ Dội, nơi quê quán thuộc tỉnh Châu Đốc. Ngài đi lần xuống Cù lao Ba, nơi đây Ngài ở một thời gian cứu dân đang gặp nạn ôn dịch.

           Sau đó, Ngài đi vào vùng Thất Sơn, rồi thẳng theo kinh Vĩnh Tế, qua miệt Giang Thành. Khi đến hòn núi Nước, Ngài có lậy một cái ếm của người Tàu. Ý chừng phá vỡ mưu mô của họ, người Tàu sanh lòng thù oán cáo gian với nhà cầm quyền Pháp rằng Ngài có ý khởi nghĩa Cần vương. Vì thế mà Ngài phải một phen giả dạng làm nữ nhơn, ẩn lánh rày đây mai đó. Ngài có đến gặp Đức Cố Quản ở Nhà Láng.

           Sau một thời gian đi hóa độ. Ngài trở về núi Tượng lập chùa phát phái, mở thành mối đạo Hiếu Nghĩa. Ngày Ngài chánh thức lấy danh hiệu Đức Bổn Sư  là ngày rằm tháng 9 năm Canh Ngọ  (1870), nhưng theo kinh Hiếu Nghĩa quyền thượng thì cho đến ngày 28 tháng 4 năm Kỷ Mão (1879) Ngài mới được thọ ký. Ngài dựng lên tại Núi Tượng ngôi Thanh Lương tự để thờ Địa Mẫu. cũng trên sở đất này, Ngài cho lập một cảnh chùa gọi là Chùa Lớn, chia làm hai ngôi; phía trước là An định miếu để thờ các vị công thần của đất nước. còn phía sau là chùa Phi Lai thờ Đức Phật Thầy Tây An ở bàn tỏ và một bức trần điều nơi bàn thờ chánh.

           Công việc sắp đặt chưa được an bài thì một biến cố xảy ra. Nguyên trong một cuộc đàn áp Cần  vương ở Tịnh Biên, quân Pháp có bắt được một tín đồ Hiếu Nghĩa trong hàng nghĩa binh. Thế là năm 1885 (Ất Dậu) quân Pháp đem binh đến Núi Tượng, một mặt thiêu hủy chùa miếu và nhà cửa, một mặt bắn giết và bắt bớ tín đồ. Đây là tai nạn đầu tiên mà đạo Hiếu Nghĩa đã gặp. Chừng như Đức Bổn Sư cũng đã tiên liệu tai nạn này, nên chi, trước đó mấy năm. Ngài nhìn bầy gà ăn lúa chung quanh cối xây ở trước chùa, có nói rằng: đầu cối gà bươi mà cuối cuối gà cũng bươi. Câu nói này không ai đoán ra. Đến năm Ất Dậu khi xảy ra tai nạn người ta mới hiểu. Nhưng đáo chỉ mới là đầu cối gà bươi, còn cuối cối gà bươi là năm  1945 cũng là năm Ất Dậu, chùa miễu ở núi Tượng bị đốt phá một lần nữa. Đó là hai lần đại nạn của tín đồ Hiếu Nghĩa.

           Sau cuộc đốt phá và bắt bớ năm 1885, tín đồ Hiếu Nghĩa phần nào được thả thì trở về lo cất lại nhà cửa. Chùa miếu lần lượt cũng được trùng tu, nhưng nhà cầm quyền Pháp bắt phải đặt dưới sự chỉ huy của hương chức hội tề, nhứt cử nhứt động gì cũng phải xin phép, tín đổ không được tụ hợp đông đảo như trước; mỗi lần vào chùa lễ bái không quá con số bốn người.

           Từ ngày xảy ra tai nạn. Đức Bổn Sư cùng một số cao đệ đi lánh mặt. Để tránh sự truy nã của quân Pháp, Ngài phải giả dạng ra nữ nhơn rầy đây mai đó. Khi thấy tình thế hơi dịu. Ngài trở về núi Tượng tu chỉnh chùa miễu và tiếp tục công cuộc phổ hóa.. Nhưng cho được ổn thỏa với hương chức hội tề luôn luôn đứng một bên chỉ huy, hay hơn nữa để đánh tan lòng nghi ngờ của quân Pháp. Ngài canh cải cách thờ phượng và tụng niệm. Thay vì thờ một tấm trần điều thì Đức Bổn Sư bảo thờ một bức tượng Đức Quan Đế. Thật ra thì bức tượng ấy không có để nguyên mà bị vanh bỏ chung quanh, chỉ lấy phần hình mà thôi. Và cái phần hình ây được dán lên trên tấm trần điều. Chỉ những người có để ý mới nhận thấy.

           Việc lọng hình Đức Quan Đế trên trần điều xét ra không khác trường hợp Đức Huỳnh Giáo chủ dạy tín đồ đổi trần điều ra trần đà và viết lên chín chữ "Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu ni Phật", trong lúc nhà cầm quyền Pháp làm khó khăn và khủng bố Đạo.

           Ngoài Đức Quan Đế, tín đồ Hiếu Nghĩa còn thờ nhiều hình tượng khác nữa. Như ở thôn đạo An Thành thì thờ Đức Quan Âm. Thôn đạo An Hòa thì lập miếu gần chùa Phổ Đà thờ Na Tra. Còn ở gia đình của tín đồ Hiếu Nghĩa thì nhà nào cũng có thờ ông Táo.

           Cách thờ phượng của đạo Hiếu Nghĩa, xem đó, không khác cách thờ phượng của nhà thiền mà chúng ta thường thấy. Cho đến cách tụng niệm cũng không khác. Nơi chùa cũng như nơi nhà của tín đồ Hiếu Nghĩa, hằng đêm đều có tụng kinh gõ mõ. Kinh được tụng phần nhiều là kinh Kim cang. Di Đà. Phổ môn. Bát Dương. Tâm Kinh… tức là những kinh trong nhà thiền thường đọc tụng. Nhưng ngoài mấy bộ kinh vừa kể, tín đồ Hiếu Nghĩa còn tụng những kinh chính của Đức Bổn Sư sáng tác, như Hiếu Nghĩa kinh, Siêu thăng kinh, Phổ độ, Thiên đồ, Âm chất. Đào viên minh thánh kinh…

           Tóm lại từ cách thờ phượng tượng Đức Quan Đế cho đến cách tụng niệm, vì để đánh lạc hướng của nhà cầm quyền Pháp. Đức Bổn Sư  đã rập theo hình thức của nhà thiền. Mặc dù Ngài cố gắng thay hình đổi dạng như thế, nhưng quân Pháp cũng không vì đó mà để cho Ngài và tín đồ Hiếu Nghĩa ở yên. Chúng vẫn tầm bắt Ngài và khổ khắc tín đồ Hiếu Nghĩa. Nhiều khi Ngài phải hóa trang và ẩn lánh. Có một lần nọ, trong lúc chùa có lễ cúng lớn, quân Pháp biết chắc Ngài có mặt tại đó, nên kéo binh đến vây bắt. Tín đồ đều hồn kinh phách tán, vì không còn ngõ nào cho Đức Bổn Sư  thoát thân. Môn đệ đến cho Ngài hay tình thế nguy biến thì Ngài vẫn thản nhiên bảo mấy cao đệ hãy núp theo bóng của Ngài mà đi. Ngài cùng môn đệ đi ra một cách tự nhiên trước mặt quân Pháp mà chúng ta không thấy.

           Tuy gặp nhiều lúc nguy biến như thế, nhưng Ngài cứ một mực phổ hóa chúng sinh, tiếp tục phát phái Bửu- Sơn  Kỳ- Hương. Thật không có thời kỳ nào tín đồ Bửu- Sơn  Kỳ- Hương chịu nhiều tai ách bằng thời kỳ này. Trong suốt thời gian từ  ngày Đức Bổn Sư ra đời cho đến ngày Ngài Tịch (năm canh dần 1890), không quyết tâm tiêu diệt, nhưng nhờ có Ngài ra công bảo thủ mà giáo hệ Bửu- Sơn  Kỳ- Hương được giữ vững, chỉ được giữ vững thế cũng là may lắm rồi, chớ không dễ gì bành trướng như hồi thời Đức Phật Thầy Tây An được.

           Thế nên thời kỳ Đức Bổn Sư phổ hóa, có thể gọi là thời kỳ củng cố.

 2. GIÁO LÝ

 Như mọi người đều biết, giáo hệ Bửu- Sơn  Kỳ- Hương chủ trương pháp môn Tu Nhân Học Phật. Đức Bổn Sư  khi ra mở đạo cũng phát  lòng phái Bửu- Sơn  Kỳ- Hương cho môn nhơn đệ tử; như thế đủ chứng rằng Ngài là vị kế truyền của Đức Phật Thầy Tây An.

           Nhưng khi xét đến nghi thức thờ phượng và lễ bái của Đức Bổn Sư, không khỏi có người ngạc nhiên mà nhận thấy có sự bất đồng gần như tương phản giữa Ngài và Đức Phật Tầy về phương diện hành đạo. Đức Phật Thầy thì chủ về vô vi, còn Đức Bổn Sư thì trọng về sắc tướng.

           Tại đâu có chỗ tương phản ấy? Thế thì Đức Bổn Sư chẳng cùng một tôn chỉ Bửu- Sơn  Kỳ- Hương sao?

           Tuy nhiên, nếu có đi sâu vào giáo lý của Đức Bổn Sư , mới nhận thấy Ngài cũng vẫn chủ trương pháp môn Tu Nhân Học Phật và xiển minh giáo lý vô vi của Đức Thích Ca. Nhưng sở dĩ, về nghi thức thờ phượng, Ngài còn trọng về phần hữu vi, ấy chẳng qua vì hoàn cảnh lúc bấy giờ bắt buộc. Trước sư đàn áp nghiệt ngã của quân Pháp đối với giáo hệ bắt đầu, nếu Ngài không biến đổi cách thờ phượng và lễ bái trọng về sắc tướng như nhà thiền thì hẳn Ngài không sao gây được mối đạo Hiếu Nghĩa để bảo tồn giáo hệ Bửu- Sơn  Kỳ- Hương.

           Mặc dù hình thức có khác, và đó chẳng qua là sự bất đắc dĩ trong chỗ quyền xảo, chớ kỳ thật về giáo lý thì Đức Bổn Sư  vẫn giữ chủ trương pháp môn Tu Nhân Học Phật.

 TU NHÂN

           Cũng như Đức Phật Thầy Tây An, Đức Bổn Sư  khuyến tu nhân đạo, vì đạo nhân là căn bản của các mối đạo, như Ngài đã nói:

 Làm người thời phải tu nhân.

 Nhân là thiên bổn can duơn vun trồng

           Vì đâu làm người phải tu đạo nhân trước hết ? Vì rằng đạo nhân là bước đầu để đi đến con đường tu Tiên tác Phật. Nếu đạo nhân mà làm không rồi thì khó mong giữ được hột giống nhân luân. Mã đã không còn hột giống nhân luân thì lấy thân người đâu để tu thành Tiên thành Phật. Thế nên Đức Bổn Sư  khuyên nhủ:

 Làm người chẳng xét lo lường.

 Cũng như se cát dã trường nhọc thân

 Sao bằng giữ đạo nhân luân.

 Mang lông cũng khổ, đội sừng dễ chi

           Nhưng muốn tu nhân đạo, theo Đức Bổn Sư không chi bằng thực hành theo đạo Thánh Hiền, trước phải trau sửa thân mình để trở thành người quân tử:

 Muốn cho tỏ đạo Thánh Hiền.

 Đặng làm quân tử phải chuyên trau mình

           Và có làm được quân tử thì mới mong gần bực Thánh Hiền.

 Sao cho văn chất lân lân

 Đặng làm quân tử Thánh nhân mới gần

           Ngoài việc tu thân theo đạo Nho để trở nên người quân tử. Đức Bổn Sư còn khuyến tu Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Nhưng trong bốn ân: ân tổ tiên cha mẹ,  ân đất nước , ân tam bảo và ân đồng bào nhân loại. Đức Bổn Sư đặc biệt biểu dương và xiển minh ân tổ tiên cha mẹ và ân quốc vương thủy thổ mà Ngài lập thành một mối đạo mạng danh là Đạo Hiếu Nghĩa.

           Trong Hiếu Nghĩa Kinh. Đức Bổn Sư  giải rõ lý do tại đâu tông phái của Ngài lại lấy tên  Hiếu Nghĩa. Ngài cho biết rằng: Đường Tam Tạng qua Tây phương thỉnh kinh về Đông độ để cứu tế sanh linh, nhưng "từ Hậu Hán truyền lại đây khuyết đi Hiếu Kinh. Biết rõ cớ ấy nên nay Phật thuyết bổn tông, hoằng đạo lợi sanh, tự tha đều độ. Công đức của đạo Hiếu thật là rộng lớn". Vì rằng hành được Hiếu Nghĩa thì "lợi nhân thủy vương sanh, quốc gia hưng xương thạnh, tam bảo đạo quang minh".

           Như thế đủ thấy Hiếu Nghĩa là đầu mối Tứ Ân. Nếu hành được Hiếu Nghĩa thì chẳng những trả được ân tổ tiên cha mẹ và ân quốc vương thủy thổ mà đồng thời cũng trả được ân tam bảo và ân đồng bào nhân loại.

           Nói tóm lại, theo Đức Bổn Sư, muốn đền đáp Tứ Ân, chỉ cần làm xong Hiếu Nghĩa. Người mà làm xong Hiếu Nghĩa giữ trọn tam cang thì chẳng những làm tròn đạo nhân mà còn vượt khỏi nẻo luân hồi trong vòng lục đạo.

 Quán Vương nghĩa trọng biết bao.

 Làm tôi lo báo công lao ở đời.

 Song thân ân lớn bằng trời.

 Làm con lo trả biết đời nào xong.

 Kiếp trần nhiều nỗi long đong,

 Tam cang giữ trọn sau vòng đành qua.

 HỌC PHẬT

           Về phương diện học Phật. Đức Bổn Sư  cũng chủ trương pháp môn Thiền tịnh song tu như Đức Phật Thầy Tây An. Không có pháp tu nào dễ bằng pháp môn niệm danh hiệu Phật A di đà cầu vãng sinh về Cực lạc. Chẳng lựa phải nhọc công nhiều, chỉ chuyên niệm sau chữ Nam mô A di đà Phật là được về cõi Tây phương Đức Bổn Sư  hằng nói:

 Di Đà hai chữ rộng suy

 Một câu liễu đặng luận chi muôn vàn

           Vì đâu chỉ niệm có 6 chữ Nam mô A di đà Phật lại được vãng sanh về cực lạc dễ dàng như thế? Là vì Đức Phật A di đà có phát ra 48 lời nguyện, trong đó có câu nói rằng nếu chúng sanh nào niệm đến danh hiệu của Ngài thì khi lâm chung sẽ được Ngài và các Thánh chúng tiếp dẫn về cõi Tịnh độ.

 Phật xưa bốn tám lời thề.

 Chúng sanh độ hết chớ hề bỏ ai.

 Ai mà giữ đạo Như Lai,

 Ngân kiều khỏi xuống, Kim đài bước lên.

           Thế nên Đức Bổn Sư chẳng dứt khuyên người niệm Phật, niệm một cách tha thiết tinh chuyên thì chắc chắn sẽ được vãng sanh:

 Niệm Phật đừng có lôi thôi.

 Niệm cho chánh niệm mới ngồi tòa sen.

 Cần nhứt là phải chánh niệm:

 Ai mà chánh niệm tinh chuyên

 Trong thánh ắt trổ kim liên báu thành.

           Ngoài pháp môn Tịnh độ tông tha cầu Phát lực. Đức Bổn Sư còn khai thị pháp môn Thiền tông, tức pháp môn tự lực tu hành, tự mình trau tâm sửa tánh, trừ diệt thất tình lục dục cho không còn ô nhiễm :

 Thoát vòng tứ tướng mới khôn

 Ly đường lục tặc lập đồn minh quân

          Và cho đạt được Bồ đề diệu quả, đến bờ bên kia, cần phải tinh tấn tu hành, quyết tâm lướt mọi gian lao nguy khổ:

Quyết lòng lên chốn tháp san

 Tầm Ba la mật gian nan chi sờn.

 Kỳ viên quyết dạ đời chơn.

 Tầm Bồ để quả làm huờn hộ thân

           Chủ yếu của phép tu Thiền tông là đạt đến chỗ minh tâm kiến tánh. Mỗi chúng sanh đều sẵn có bản tâm thanh tịnh, vĩnh viễn trường tồn, bất di bất dịch, nhưng vì thiên chấp sắc tướng mà lu mờ chơn giác; vì thế mà lầm nhận cái không làm có, cái có làm không. Do chỗ mê lầm ấy mà lăn lộn mãi trong tam đồ lục đạo. Chỉ có trở về với bản tánh thanh tịnh, nhận rõ cái lý: sắc tức thị không, không tức thị sắc thì mới dứt đường sanh tử, phản bổn hoàn nguyên, như  Đức Bổn Sư đã nói:

 Sao cho sắc tức thị không,

 Một câu phản lão hoàn đồng mấy ai!

 Phật xưa từ chốn kim giai,

 Ma ha hai chữ giồi mài tánh gương

           Và cho được đạt lý chơn không, theo Đức Bổn Sư, phải dùng phép tham thiền quán tưởng.

           Trong siêu thăng kinh, Ngài có luận giải về phép quán như vầy: "Quán dung thông tức là chơn quán, như thanh tịnh quán, quảng đại trí huệ quan, từ bi quán; hễ tường nguyện thường chiêm ngưỡng thanh tịnh thì ánh sáng trí huệ hiện ra, phá tan mọi hắc ám. Khi đã đạt lý viện dụng , mới biết: có niệm như không niệm, có sanh như không sanh, có tu như không tu, có chứng như không chứng, có thuyết như không thuyết. Sự tức là lý, lý tức là sự, tướng tức là phi tướng, phi tướng tức tướng; vô lượng là một, một là vô lượng; Tha Phật tức ngã Phật, ngã Phật tức tha Phật, ta nói pháp tức Phật nói pháp, Phật nói pháp tức ta nói pháp. Thế nên tâm tức Phật, Phật tức tâm".

           Chỉ một cái tâm đó mà hễ giác thì thành Phật, còn mê thì làm chúng sanh.

 Trong đời già trẻ ai ai.

 Biết thời làm Phật. mê thời chúng sanh

 Thiên đàng Địa ngục chẳng quanh,

 Nương theo bổn phận, lợi danh chớ gần.

           Đó là yếu lý thiền pháp vô vi Phật. Trong Siêu thăng kinh, Đức Bổn Sư  cũng nhận rằng: " Hữu động chi động xuất ư bất động. Hữu vi chi vi xuất ư vô vi.Vô vi tắc thần qui, thần qui tắc vạn vật vân tịch. Bất động tắc khí manh, khí manh tắc vạn vật vô sanh". Có nghĩa: Cái động là từ trong hữu động mà ra, cái vi là từ trong vô vi mà có. Hễ vô vi thì nguơn thần qui tụ mà nguơn thần qui tu thì vạn vật vắng lặng. Còn bất động thì khi ngưng, mà khi ngưng thì vật không sanh.

           Vì vậy mà Ngài cực lực bài bác âm thinh sắc tướng, vì Ngài cho đó là phi đạo, nếu nương theo thì không khỏi huân tập tà kiến. Ngài có viết:

 Xuất thế vi nhân tu hướng thiện

 Phỏng cầu Đại Đạo lão tham thiền

 Thinh âm sắc tướng giai phi đạo.

 Thiết vật tin tà tập ngoại biên…

  Tạm dịch :

 Kẻ xuất thế khá tua hướng thiện

 Sớm tham thiền mới kiến Ma ha,

 Âm thinh sắc tướng đều tà.

 Chớ nên tập nhiễm đọa sa lạc lầm.

           Xem đó đủ thấy giáo lý của Đức Bổn Sư  không khác giáo lý của Đức Phật Thầy Tây An. Sở dĩ về nghi thức hành đạo của Ngài còn thiên trọng về thính âm sắc tướng như chúng ta đã thấy, chẳng qua là một phương tiện quyền xảo để bảo tồn giáo hệ Bửu- Sơn  Kỳ- Hương trong lúc quân Pháp thẳng tay đàn áp. Cốt yếu của một nền đạo là ở phần giáo lý, người hành đạo nên nhân chân để khỏi thiên trệ về hình thức Phật-pháp có quyền có thiệt, từ hoàn cảnh mà thực hành, miễn không trái nghịch đến giáo lý thì thôi. Nếu không dùng được thiệt pháp thì dùng đến quyền pháp. Đó là chỗ thắng diệu của giáo pháp nhà Phật.

           Đức Bổn Sư  thâm hiểu lý đó, nên chi có viết:

 Học thời phải xét cho mình.

 Phật Nho cũng cứ thơ, kinh mà quyền.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn