Thắng diệu của pháp môn Tu Nhân Học Phật chẳng những phù hợp với cơ duyên mà còn là một phương tiện gồm cả đốn tiệm.
Mục đích của đạo Phật là dẫn dắt chúng sanh đến chỗ đắc thành đạo quả. Nhưng muốn đạt đến mục đích, nhà Phật có nhiều phương pháp tu hành đại khái phân ra làm hai loại: quyền và thiệt.
Thiệt là lấy sự thực, đem chân lý ra chỉ dạy. Nhưng phương pháp này chẳng những đã khó mà lại thường làm cho kẻ Tu học nhàm chán, bởi nó khó hiểu, chỉ thích hợp cho hạng người thượng căn thượng trí. Thế nên, để rộng độ tất cả chúng sinh, ngoài phương pháp "Thiệt". Phật-giáo còn có phương pháp "Quyền". là phương pháp tạm bợ rất xảo diệu, cốt làm thế nào dìu dắt kẻ Tu học từ chỗ giả đến chỗ chân, nghĩa là đến chỗ đạt được mục đích của Phật đạo.
Những phương pháp quyền xảo ấy, nhà Phật gọi là phương tiện.
Danh từ phương tiện có ý nghĩa rất sâu xa. Cứ theo Phật học đại từ điền thì "Phương" là phương pháp, còn "Tiện" là tiện dụng, tức là cái phương pháp vừa tiện dụng, vừa kế hợp với căn cơ của tất cả chúng sinh.
Như thế phương tiện không chỉ là một phương pháp suông mà chỗ xảo diệu của nó là phải tiện dụng và khế hợp, vì rằng nó có công năng tiện dụng thì dễ thi hành và có khế hợp với căn cơ thì mau đạt mục đích. Vị bằng thiếu hai điều kiện: tiện dụng và khế hợp ấy thì phương tiện hẳn kém sự xảo diệu.
Phương tiện của nhà Phật còn thù thắng ở chỗ nó luôn luôn hàm súc cái ý nghĩa lợi tha, chớ không như phương tiện của thế nhân chỉ chú trọng ở cái hiệu quả mong đạt được mục đích mà thành ra chẳng ngại dùng bất cứ phương tiện nào dù không chánh đáng như đã biểu hiện trong câu ngạn ngữ: "Mục đích sẽ biện minh cho phương tiện". (La fin justifie les moyens).
Chính nhờ phương tiện xảo diệu và thù thắng ấy mà Phật-pháp mặc dù cao siêu thâm viễn ,vẫn được ban rãi và nhuần thắm khắp cả chúng sinh, từ hạng thượng căn đến người hạ trí, chẳng khác trận mưa rào gội mát cả cây to lẫn cỏ nhỏ.
Phương tiện rất quan trọng đối với Phật pháp là như thế
Trong kinh Pháp Hoa, Phật đã cho biết: Để thuyết pháp độ sinh. Ta phải nhờ vào sức phương tiện. (Dĩ phương tiện lực có, vị chúng sinh thuyết pháp).
Nhưng đã là phương tiện thì sự cần thết của nó chỉ là để đạt mục đích, đến khi mục đích đã đạt thì công dung của nó không còn nữa. Có phân biệt được chỗ đó mới không nhận lầm mục đích ra phương tiện, phương tiện ra mục đích.
Để phá mê những người còn cố chấp phương tiện, Đức Phật có nói : Tất cả pháp môn của Ta ví như chiếc bè dùng qua sông, một khi đã qua sông rồi thì còn mang bè theo mà làm chi nữa. Đó là Pháp muốn răn người chấp mãi theo bè mà chẳng chịu lìa bè để lên bến.
Cũng như Ngài nói: Lời ta dạy ví như ngón tay ta chỉ mặt trăng. Mặt trăng là chỗ phải ngó, chớ đừng nhân ngón tay làm mặt trăng; tức là Phật muốn răn chúng sinh đừng lấy phương tiện làm mục đích.
Cùng một ý này, Đức Huỳnh giáo chủ có viết:
Chúng sanh mê nên đem Pháp thuyết,
Giải thoát rồi Pháp bất khả dùng.
Cũng là hiển thị cái ý răn người chấp pháp.
Ngài Câu Na Bạt Ma Tam Tạng rất chi lý khi nói: "Luận giải thì mỗi người có chủ trương khác nhau, còn lý của việc tu hành thì không hại. Lúc đi thì có phải có trái, còn khi đến thì không có gì trái ngược. Pháp môn phương tiện tuy nhiều nhưng mục đích chỉ cho người thấy thì không ngoài chuyển mê khải ngộ, ly khổ đắc lạc, chỉ ác tu thiện mà thôi".
Những lý giải trên đây đủ cho ta nhận thấy Đức Phật Thầy Tây An là một vị kế thống xứng đáng của Đức Thích Ca, một vị lương y kỳ diệu của thời đại, vì Ngài đã phương tiện khai thị pháp môn Tu Nhân Học Phật là một pháp môn vừa tiện dụng, dễ tu rộng độ, vừa khế hợp với căn cơ của chúng sinh trong thời kỳ mạt pháp.
Thật là một pháp môn có đủ cơ năng lực cảm, còn gồm cả đốn lẫn tiệm.
Giáo pháp của nhà Phật chia làm hai loại: Đốn giáo và Tiệm giáo.
Đốn giáo là giáo pháp chủ trương: Tâm chúng sinh có tự tánh chân như không đợi tu tập lâu năm mới sang tỏ. Nếu người tu thấu tỏ được chân lý thì trong nháy mắt có thể giác ngộ mà chứng được quả Niết bàn.
Những giáo lý thâm diệu của Đại thừa như "Sanh tử là Niết bàn"; "Phiền não là Bồ đề"… đều thuộc về Đốn Giáo.
Còn Tiệm giáo là giáo pháp chủ trương: Từ vô thỉ đến nay, chúng sinh chất chứa phiền não mê mờ như núi, nay muốn phá tan để đi đến cảnh Niết bàn nếu không trải qua nhiều thời gian tu tập thì không sao thành công được.
Nói tóm lại Đốn giáo là giáo pháp dạy cách tu kiến tánh thành Phật, chỉ trong một kiếp tu tiến là đạt được kết quả, còn Tiệm giáo là giáo pháp dạy cách ta dần dần mà tiến, từ quả vi này đến quả vi khác, phỉ tu nhiều năm nhiều kiếp mới thành.
Giữa phép tu chóng thành và phép tu chậm thành, hẳn người đời chấp trước phép tu vượt bực hơn phép tu từ bực.
Cái tâm lý muốn làm ít mà hưởng nhiều, muốn trồng cây hôm nay mà ngày mai hái trái là tâm lý chung của mọi người ở thế gian, điều đó không phải lấy làm lạ, nhưng có điều người tu theo Đốn giáo chấp trước lấy pháp mà trở lại bài bác Tiệm giáo. Họ viện ra câu "tu nhứt kiếp, ngộ nhứt thời" để làm luận chứng cho phép tu vượt bực của mình. Nhưng nên hiểu thế nào là "tu nhứt kiếp ngộ nhứt thời"?
Thử lấy việc nấu nước để hiểu rõ cái lý đó. Muốn cho nước bốc thành hơi, phải bắc ấm nước lên lò lửa mà đun. Nước từ trạng thái lạnh dần dần trở nên ấm, rồi từ trạng thái ấm dần dần trở nên nóng, cho đến một mực độ kia thì hốt nhiên nước bốc thành hơi.
Trong Kinh điển, Phật thường nói đến cách cọ cây lấy lửa, công phu cũng như thế.
Vậy thì, cho được nước bốc thành hơi hay cây kia nháng lửa, phải trải qua nhiều trạng thái lạnh, ấm, nóng rồi rốt hết từ nóng đến một mực độ kia nước bốc thành hơi, cây nháng ra lửa.
Cái trạng thái nước bốc thành hơi, cây nháng ra lửa đó là trạng thái hột nhiên, xuất hiện trong nháy mắt, có thể ví với trạng thái tỏ ngộ của người tu. Nhưng chớ thấy chỗ biến thái lẹ làng đó mà cho rằng nấu nước thành hơi hay cọ cây lấy lửa là công việc làm trong chốc lát, không lắm công phu.
Câu "tu nhứt kiếp ngộ nhứt thời" có thể hiểu là cái trạng thái lúc nước sắp thành hơi, cây sắp nháng lửa. Nó thuộc về giai đoạn kết quả, chớ không thuộc về giai đoạn nguyên nhân.
Thì ra cái lý "Đốn" vẫn nằm ở trong cái lý "Tiệm". Từ khi bắc ấm đun lửa hay đem cây ra cọ là giai đoạn "Tiệm", để đến lúc nước bốc thành hơi, cây nháng ra lửa là giai đoạn "Đốn", nghĩa là phải có "Tiệm" làm nhân rồi mới đi đến cái quá "Đốn". Không bao giờ có quả mà không nhân.
Việc tu hành cũng như nấu nước thành hơi, cọ cây lấy lửa, phải từ lạnh đến ấm, từ ấm đến nóng, rồi từ nóng bốc ra hơi, nháng ra lửa, nghĩa là phải trải qua nhiều giai đoạn, lắm công phu.
Nhưng vào thời mạt pháp này, có được bao nhiêu người thượng căn đại trí, đầy đủ công đức đã gây tạo trong giai đoạn "Tiệm" mà nay chỉ còn bước lên giai đoạn "Đốn".
Thế nên, để thích hợp với căn cơ của chúng sinh ở thời mạt pháp và thuận theo trình tự giác tiến, Đức Phật Thầy Tây An khai thị pháp môn Tu Nhân Học Phật là một giáo pháp chẳng những dễ tu dễ độ mà lại gồm cả Tiệm lẫn Đốn.
Người sơ cơ sẽ từ chỗ Tu Nhân mà vun trồng ruộng phước để làm nấc thang bước lên Phật đạo; người lúc căn túc trí thì nhờ có Tu Nhân mà công đức sẵn có thêm sâu dày vững chắc để sớm đạt thành Phật quả. Thật là một pháp môn rộng độ tất cả chúng sinh từ bực sơ cơ đến bực thượng tiện.
Trong thờk kỳ này nếu chấp "Đốn" bỏ "Tiệm" thì chẳng khác cất nhà mà không đắp nền, muốn leo lên cây mà không từ dưới gốc.