Đức Giáo Chủ với sự thực hư và lối vần vè

11 Tháng Mười Một 200512:00 SA(Xem: 41631)
Đức Giáo Chủ với sự thực hư và lối vần vè

 

Một điều hệ trọng trong tâm chương này là sự thực hư và lối vần vè trong Thi Văn Sấm Giảng của Đức Giáo Chủ.

 

Bắt đầu từ năm 1939, song song với việc cứu bịnh cho quần chúng. Ngài thuyết pháp và viết Kệ Kinh.

 

Lời văn của Ngài có lúc thật lưu loát văn hoa, như có hồi bất cần âm luật và lắm khi, có những dụng ngữ mập mờ của những câu sấm ngữ.

 

Mở quyển Sấm Giảng Thi Văn Toàn Bộ, chúng ta chẳng cần lựa chọn gì cũng được thấy nhan nhãn những câu êm đềm, óng chuốt. Ví như mấy câu mở đầu cho Sấm Giảng Quyển Ba của Đức Giáo Chủ:

 

Ngồi trên đảnh núi liên đài

Tu hành tầm đạo một mai cứu đời

Lan thiêng một cõi xa chơi

Non cao đảnh thượng thảnh thơi vô cùng

Hiu hiu gió thổi lạnh lùng

Phất phơ liễu yếu lạnh lùng tòng mai...

 

hoặc như mấy câu đầu trong bài tự tán:

 

Vì đâu bốc ngọn lửa Tần

Mà lòng Tăng sĩ như dần nát tan

Nghĩ mình chọn kiếp con hoang

Quê hương rày đã dặm tràng sơn xuyên...

 

Bên cạnh những câu nhẹ nhàng trôi chảy, chúng ta cũng thường gặp những câu bất chấp âm luật, và chẳng cần đẻo gọt văn từ. Ví như bốn câu Việt Hán trích trong bài Lý Lịch:

 

Huỳnh sanh cơ thẳm đáo trung đàn

Tự giác âm thầm kiếm tiên bang

Bủu ngọc sơn trung kỳ hương chí

Tứ hải bất hòa khởi tiên giang

 

Và bài Quốc âm tứ tuyệt sau đây mà Ngài đã trả lời cho một người ngoại đạo năm 1939:

 

Lo lo liệu liệu chịu tiếng trần

Một hội này ráng lập thân

Chớ để trễ trày rèn chẳng kịp

Khuyên ai khuya sớm ráng chuyên cần

 

Nhưng một phần lớn trong Thi Văn Sấm Giảng Phật Giáo Hòa Hảo, chúng ta còn thấy đựng chứa một lối viết sấm ký. Lối này thật khó rút đại ý, khó phân tích minh bạch được bố cục hoặc ý nghĩa toàn đoạn, toàn bài.. Chúng ta thử đọc mấy câu trong bài Hố hò khoan:

 

Huỳnh Long lộ vĩ

Bạch sĩ tiên sinh

Nam quốc công khanh

Ra đời cứu tế

Hò xang xự xế

Mắt kế Trương Lương

Tự giác thôn hương

Qua dương cơ khí

Lập chí hiền nhân

Nên mới có cơn

Thất sơn tiếng nổ

Quy cổ diệt Kim

Cửu cửu y nhiên

Tình riêng tham báu

Đổ máu tuôn rơi

Khùng mới nói chơi

Chư bang hàng phục...

 

Hoặc mấy câu khác nữa trong bài Thiên Lý Ca:

 

Vườn hoa ngó khỉ giọng chiu chít

Cảnh nguyệt coi gà tiếng ó o

Tường tận đã nghe xê cống liếu

Hương thôn bỏ xế xự xang hò (1)

 

Và đoạn sau đâu trong Tự thán:

 

Mắt đen thấy mắt trắng lòa

Phật ma ma Phật mới ra vở tuồng

Trời già tay khéo khéo luôn

Sắp chi chua ngọt pha buồn lẫn vui

Năm canh luống những sụt sùi

Cảm trông dân chúng lắm người dở dang

Sầu chung ta cất tiếng than

Phù sanh kiếp có đoạt tràng thì thôi.

Bon bon chuông giục mấy hồi

Rầm rầm sấm nổ trên đồi xa xa

Đầu canh tiếng động bên nhà

Chờ ba canh một thì gà gáy tan

 

Ngoài mấy đoạn trích dẫn có tính cách thật hư, còn có lối việt rất mực bình dân, lắm lúc như vần è và dụng ngữ như hình không cần chọn lọc. Mời bạn đọc qua đoạn sau đây:

 

Bạc không cánh đổi thay chẳng xiết

Vàng bị nghèo mấy chiếc chẳng còn

Mới mấy năm sao quá hao mòn

Mùa màng thất đói đau không thuốc

Thương hại bấy lê dân đứt ruột.

Thảm vợ con đói rách đùm đeo

Gẫm chữ nghèo còn mắc chữ eo

Thêm gạo lúa lại tăng giá mắc...

 

Ai cũng hiểu là tính cách một bài vè được phảng phất đâu đây qua những câu trên. Thế mà có lúc, Đức Giáo Chủ còn dùng những tiếng hoàn toàn quen thuộc của giới nông phu mà người chưa hiểu dụng ý của tác giả, có thể trách lầm là quê kệch. Chẳng hạn:

 

Câu chánh nghiệp thật là quá bự

Dầu nghề chi làm việc ngay đường

......................................................

Có người ở xóm bằng nay

Bị mất trộm rày đồ đạc sạch trơn

....................................................

Xóm này kẻ ghét người ưa

Ghé vào nhà nọ nhổ bừa cái răng.

 

Những tiếng bự, bằng nay, rày, sạch trơn nổ bừa, quả là những tiếng dùng quen thuộc của hạng bình dân phác thực.

 

(1) Bài này thuộc lối thuận nghịch độc, xin đọc ngược từ dưới lên

 

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn